Showing posts with label banker. Show all posts
Showing posts with label banker. Show all posts

Sunday, May 16, 2021

Thấy gì từ việc nhân viên ngân hàng lừa tiền khách hàng?

Gần đây, ngày càng nhiều vụ nhân viên ngân hàng lừa tiền. Lý do cơ bản là luật pháp thiếu nghiêm minh và ngân hàng buông lỏng quản trị đạo đức...Gần đây thị trường lại nổi lên các vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản liên quan đến nhân viên ngân hàng. Các luật sư giải thích câu chuyện này như thế nào?

DÙNG "MÁC" NHÂN VIÊN NGÂN HÀNG ĐỂ LỪA TIỀN

Mới đây nhất, Công an tỉnh Gia Lai đang thông báo rộng rãi ai là nạn nhân trong vụ Chu Nữ Diệu Huyền (sinh 1985, trú tại phường Phù Đổng, Pleiku) lừa đảo 55 tỷ đồng thì liên hệ Phòng Cảnh sát hình sự để trình báo.

Qua điều tra của công an, nhiều người mới vỡ lẽ đối tượng Chu Nữ Diệu Huyền lúc còn làm nhân viên kế toán tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) Chi nhánh Gia Lai, đã khoe khắp nơi mình có nhiều mối quan hệ đáo hạn ngân hàng cho cá nhân và doanh nghiệp; đồng thời kêu gọi những người có tiền cho vay trả lãi cao.

Nhân viên ngân hàng thường tạo vỏ bọc hào nhoáng, "nhiều tiền", "giỏi xoay xở", để gây dựng lòng tin dụ con mồi sập bẫy qua chiêu thức "cho vay hưởng lãi suất cao" hoặc lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tiền khách hàng.

Để tạo dựng lòng tin với "con mồi", Huyền tiếp cận đối tượng và giúp họ giải quyết các khúc mắc trong giao dịch dân sự với ngân hàng; sau đó ngỏ lời vay và trả lãi cao.

Do quen biết và tin tưởng, từ giữa năm 2019 đến giữa năm 2020, bà N.T.N nhiều lần chuyển cho Huyền vay với tổng số tiền lên tới hơn 55 tỷ đồng. Thời gian đầu Huyền trả lãi đều nhưng từ nửa cuối năm 2020, chị ta bắt đầu chây ỳ. Đồng thời, còn dựng chuyện với bà N.T.N rằng: đã chuyển toàn bộ số tiền 55 tỷ đồng nói trên cho Lê Thị Thương (sinh năm 1988, trú tại phường Hoa Lư, Pleiku), nhân viên hợp đồng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai. Lê Thị Thương là chủ mưu một vụ lừa đảo khác cũng tại Pleiku.

Khi biết Lê Thị Thương đến cơ quan công an trình báo mình bị vỡ nợ, Huyền nói với chị N.TN rằng đã mang toàn bộ số tiền đó đưa cho Thương và cho biết mình cũng là nạn nhân. Song, qua điều tra, cơ quan công an xác định không có căn cứ khẳng định Huyền mang số tiền vay mượn của chị N. đưa cho Thương. Thay vào đó, đối chiếu với những tài sản nhà cửa, ô tô..., cơ quan điều tra khẳng định Huyền đã chiếm đoạt 55 tỷ đồng đồng để sử dụng cho các mục đích cá nhân.

Tương tự, ngày 11/3, cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Bạc Liêu tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Trịnh Thị Mỹ Phượng (sinh năm 1987, trú tại phường 5, thành phố Bạc Liêu) về hành vi "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Theo điều tra, vào thời điểm còn là nhân viên tín dụng một ngân hàng thương mại cổ phần, để có tiền đáo hạn ngân hàng, Phượng hỏi vay ông T.M.Đ với số tiền 800 triệu đồng và thế chấp 1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hơn 500 mét vuông tại huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) cho ông này. Đồng thời, Phượng cam kết nếu không trả được nợ cho ông T.M.Đ, sẽ chuyển quyền sử dụng đất thửa đất trên để cấn trừ.

Tuy nhiên, sau khi nhận được tiền,  Phượng không đáo hạn ngân hàng mà dùng số tiền đó để trả nợ và tiêu xài cá nhân. Không phải một mình ông T.M.Đ dính bẫy lừa mà Phượng còn lừa nhiều người khác và lẩn tránh nên bị chủ nợ truy đòi ráo riết, xã hội đen tạt xú uế vào nhà mẹ đẻ.

Hoặc một vụ khác, cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Bến Tre ra quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Thị Mai Phương (trú tại xã Bình Thới, huyện Bình Đại) nguyên là nhân viên của  một chi nhánh ngân hàng tại huyện Bình Đại để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Theo điều tra ban đầu, từ năm 2019 đến giữa năm 2020, khi làm nhân viên một chi nhánh ngân hàng tại huyện Bình Đại, Nguyễn Thị Mai Phương đã vay tiền của nhiều người dân với nhu cầu để đáo hạn ngân hàng. Sau khi nhận tiền, bà Phương sử dụng vào mục đích cá nhân khác với tổng số tiền vay và chiếm đoạt hơn 10 tỷ đồng. Do không có khả năng chi trả kéo dài nên các cá nhân bị Phạm Thị Mai Phương lừa tiền đã tố cáo với cơ quan chức năng.

Gần đây nhất là vụ việc giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) chi nhánh Nguyễn Kiệm cung cấp hồ sơ, quyết định cấp tín dụng giả mạo của ban lãnh đạo ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt 8 tỷ đồng của Công ty Cổ phần Đầu tư N&T với lý do "ứng chi phí định giá, chi phí vay vốn và chi phí hoàn thiện hồ sơ vay vốn".

Chỉ đến khi khách hàng tố cáo, ban lãnh đạo ngân hàng mới rà soát và phát hiện vụ việc, chủ động trình báo cơ quan công an; đồng thời, sa thải ngay giám đốc SCB chi nhánh Nguyễn Kiệm.TUYỂN DỤNG CÓ VẤN ĐỀ?

Các vụ nói trên chỉ là một số trong hàng chục vụ đã xảy ra trong mấy năm gần đây về việc nhân viên ngân hàng tạo vỏ bọc hào nhoáng, "nhiều tiền", "giỏi xoay xở", tạo lòng tin để dụ con mồi sập bẫy qua chiêu thức "cho vay hưởng lãi suất cao" hoặc lợi dụng chức vụ quyền hạn trong ngân hàng chiếm đoạt tiền khách hàng.

Trao đổi với luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty luật ANVI, về các vụ việc nêu trên, ông phân tích: khoảng hơn chục năm về trước, số vụ việc nhân viên ngân hàng vi phạm luật pháp trực tiếp và/hoặc gián tiếp như gian dối, tham ô, gian lận là có nhưng không nhiều như mấy năm gần đây.

Nhưng hiện tại, quy mô nền kinh tế phát triển nhanh và mở rộng, ngành ngân hàng cũng tăng trưởng bùng nổ và kéo theo đó, số vụ việc vi phạm luật pháp liên quan đến ngành ngân hàng cũng nhiều thêm."Ngân hàng thời xưa, chỉ một thủ quỹ be bé cũng phải lý lịch 3 đời, phải nhờ công an xác minh, kiểm tra đủ thứ nhưng bây giờ làm gì có chuyện đó. Thậm chí, ngay cả giám đốc chi nhánh cũng chẳng ai kiểm tra lý lịch, khi tuyển dụng đưa vào thế nào thì tiếp nhận thế đấy. Pháp luật phải nghiêm, ngân hàng tuyển dụng phải chặt chẽ thì dù không ngăn hết số vụ vi phạm có liên quan đến nhân thân nhân viên/cán bộ ngân hàng thì cũng hạn chế rất đáng kể".

Luật sư Trương Thanh Đức

Vị luật sư này cho rằng, trước hết, xét ở góc độ tính nghiêm minh của luật pháp ở Việt Nam là có vấn đề, khác hẳn so với ở nước ngoài. Ví dụ, từng có một vụ nổi đình đám mấy năm trước ở một ngân hàng lớn nhưng họ gần như đứng ngoài mọi trách nhiệm. Và vì không có một bản án nghiêm khắc cho ngân hàng này nên về sau, đã xuất hiện rất nhiều vụ na ná như vậy.

Nhiều vụ nhân viên ngân hàng lừa đảo trắng trợ nhưng ngân hàng luôn chối bỏ với lý giải "do các ông hùa với nhau lừa ngân hàng". Đi cùng đó, việc quản trị hệ thống, quản trị đạo đức cán bộ, nhân viên cũng bị buông lỏng. "Bây giờ mà cứ tình trạng đưa đẩy một hồi, đá qua đá về, 10 vụ thì 9 vụ ngân hàng không chịu trách nhiệm thì đương nhiên còn nhiều vụ nữa", ông Đức nói.

Cũng theo ông, việc quản trị con người là vô cùng khó, nếu như không nói là không thể nhưng không vì thế mà ngân hàng bất lực.

Còn theo luật sư Phạm Dạ Quỳnh, Trưởng Văn phòng luật sư Vạn Bảo, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, trong các vụ án trên, về hình thức, hành vi của các nhân viên ngân hàng có những điểm giống giao dịch dân sự nhưng bản chất thì đó là những hành vi nhằm mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của khách hàng. Ở đây, niềm tin của khách hàng đối với các ngân hàng đã bị một số nhân viên lợi dụng để trục lợi thông qua các hành vi vi phạm pháp luật.

Luật sư Quỳnh  cho rằng, mặc dù xảy ra bên ngoài nhưng các ngân hàng cũng cần hạn chế "nhân viên xấu" bằng cách nâng cao chất lượng công tác, quản lý các mối quan hệ của nhân viên. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định liên quan đến giao dịch tài chính; từ đó, tránh tạo "kẽ hở" để một số nhân viên lợi dụng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, vừa xâm hại quyền lợi của khách hàng, vừa ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính mình.

Ở một góc nhìn khác, bà Ngô Thị Ngọc Lan, Giám đốc khu vực miền Bắc Navigos Search cho rằng, từ nửa cuối năm 2020 đến nay, khi đại dịch Covid - 19 bùng nổ, Navigos Search vẫn ghi nhận các ngân hàng vẫn có nhu cầu tuyển dụng số lượng lớn nhân sự. Các yêu cầu chủ yếu xoay quanh khả năng nghiệp vụ nhưng sau đó các ngân hàng đều cho nhân viên bồi dưỡng, tập huấn về đạo đức nghề nghiệp.

"Qua đợt bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, nhân viên ngân hàng có những ứng xử theo chuẩn mực được đòi hỏi từ nhận thức về trách nhiệm", bà Lan chia sẻ.

Còn với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam thì sao? Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, cơ quan này đang tổng hợp tất cả các ý kiến của các hội viên để xây dựng "khung" chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng nhằm áp dụng cho toàn hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam. Hiện tại, Hiệp hội đã tập hợp được nhiều phản hồi tích cực và dự kiến sẽ sớm ban hành "sổ tay" về vấn đề này.

Thursday, November 3, 2016

HƯỚNG DẪN THUẾ ĐIỆN TỬ

Nộp thuế điện tử là dịch vụ cho phép người nộp thuế lập Giấy nộp tiền (GNT) vào Ngân sách Nhà nước trực tiếp trên Cổng thông tin điện tử của Cơ quan thuế và được Ngân hàng thương mại (NHTM) xác nhận kết quả giao dịch nộp thuế tức thời.

          Hiện nay, Tổng cục Thuế đã phối hợp với các ngân hàng để cung cấp dịch vụ Nộp thuế điện tử, bao gồm:
-         Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
-         Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
-         Ngân hàng TMCP Quân đội (Mbbank)
-         Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank)
-         Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank)
-         Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
-         Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank)
-         Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB)
-         Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB)
-         Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)
-         Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB)
-         Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)          
-         Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank)
-         Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
-         Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank)  
-         Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank)
-         Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank)
-         Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank)
-         Ngân hàng TMCP Đông Á (DongA Bank)
-         Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank)
-         Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank)
-         Ngân hàng TMCP Bản Việt (Viet Capital Bank)
-         Ngân hàng TMCP Việt Á (Viet A Bank)
-         Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank)
-         Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVComBank)
-         Ngân hàng TNHH INDOVINA (IVB)
-         Ngân hàng Thương Mại TNHH MTV Đại Dương (OCEANBANK)
-         Ngân hàng TMCP Kiên Long (KienLongBank)
-         Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB)
-         Ngân hàng Mizuho (Mizuho Bank)
-         Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam (Shinhan Bank Vietnam)
-         Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SAIGONBANK)
-         Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB)
-         Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC)
-         Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam)
-         Ngân hàng Bangkok Đại chúng TNHH (Bangkok Bank)
-         Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank)
-         Ngân hàng Citibank (Citibank)
-         Ngân hàng The Bank of Tokyo - Mitsubishi UFJ, Ltd (BTMU)
a. Lợi ích đối với NNT
-         Tiết kiệm chi phí đi lại, thời gian giao dịch; đơn giản thủ tục giấy tờ khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
-         Nộp thuế tại bất cứ địa điểm nào có kết nối Internet.
-         Nộp thuế 24/7, kể cả ngày nghỉ/lễ, được NHTM xác nhận kết quả giao dịch ngay khi gửi GNT.
-         Có thể truy cập Cổng thông tin điện tử của Cơ quan thuế để xem, in, tải về các thông báo, GNT điện tử đã nộp.
-         Được sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng khác của NHTM.
b. Điều kiện đăng ký Nộp thuế điện tử
          NNT tự nguyện đăng ký nộp thuế điện tử khi có đủ các điều kiện sau:
-         Là tổ chức, doanh nghiệp được cấp mã số thuế/mã số doanh nghiệp và đang hoạt động.
-         Có chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp và đang còn hiệu lực.
-         Có kết nối Internet và địa chỉ thư điện tử liên lạc ổn định với Cơ quan thuế.
-         Đang thực hiện khai thuế điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Cơ quan thuế.
-         Có tài khoản tại NHTM.
          Trong thời điểm hiện tại, NNT muốn sử dụng dịch vụ cần có tài khoản tại 01 ngân hàng đã phối hợp với Tổng cục Thuế cung cấp dịch vụ và thuộc địa bàn quản lý của các Cục Thuế, Chi cục Thuế trên toàn quốc.
c. Các bước đăng ký sử dụng dịch vụ:
-         Bước 1: NNT thực hiện đăng ký sử dụng dịch vụ Nộp thuế điện tử trên cổng thông tin điện tử http://nopthue.gdt.gov.vn theo các bước trong tài liệu hướng dẫn sử dụng.
-         Bước 2: NNT tải bản đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản với ngân hàng trên cổng thông tin điện tử của NHTM hoặc theo các đường dẫn:
+       Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV):Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Quân đội (Mbbank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB): Bản đăng ký.   
+       Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBANK): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Đông Á (DongA Bank): Bản đăng ký. 
+       Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Bản Việt (Viet Capital Bank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Việt Á (Viet A Bank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVComBank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TNHH INDOVINA (IVB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Thương Mại TNHH MTV Đại Dương (OCEANBANK): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Kiên Long (KienLongBank):  Bản đăng ký.
+        Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB):  Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Mizuho (Mizuho Bank): Bản đăng ký. 
+       Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam (Shinhan Bank Vietnam): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SAIGONBANK):Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC):Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Bangkok Đại chúng TNHH (Bangkok Bank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng TMCP Bắc Á (Bac A Bank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng Citibank (Citibank): Bản đăng ký.
+       Ngân hàng The Bank of Tokyo - Mitsubishi UFJ, Ltd (BTMU): Bản đăng ký.
-         Bước 3: NNT khai các thông tin, sau đó đến chi nhánh NHTM để thực hiện thủ tục đăng ký ủy quyền trích nợ tài khoản cho dịch vụ Nộp thuế điện tử.
-         Bước 4: Sau khi chi nhánh NHTM duyệt đăng ký, NNT nhận thông tin chấp nhận đăng ký sử dụng dịch vụ Nộp thuế điện tử qua Email đã đăng ký kèm với mật khẩu đăng nhập cho dịch vụ Nộp thuế điện tử.
d. Các chức năng hỗ trợ người nộp thuế thực hiện Nộp thuế điện tử
-         Chức năng đăng ký sử dụng dịch vụ Nộp thuế điện tử.
-         Chức năng lập giấy nộp tiền, gửi giấy nộp tiền (Có hỗ trợ thông tin sổ thuế phải nộp).
-         Chức năng tra cứu chứng từ, tra cứu thông báo.
-         Chức năng cập nhật thông tin người nộp thuế.
e. Tài liệu hướng dẫn sử dụng:
-         NNT có thể tải hướng dẫn sử dụng dịch vụ Nộp thuế điện tử tại đây, hoặc trong phần trợ giúp trên cổng thông tin http://nopthue.gdt.gov.vn.
f. Hỗ trợ dịch vụ:
NNT có thể liên hệ với đầu mối hỗ trợ để được giải đáp các thông tin về dịch vụ, hướng dẫn sử dụng và vướng mắc trong quá trình sử dụng. Thông tin chi tiết về đầu mối hỗ trợ dịch vụ Nộp thuế điện tử Tại đây.


Wednesday, August 17, 2016

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM

I.Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, xu hướng tất yếu của các NHTM

Trong nền kinh tế mở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL). Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, nên các dịch vụ thường đơn gi
ản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng... 
Theo các chuyên gia kinh tế của Học viện Công nghệ Châu á – AIT, dịch vụ NHBL là cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin. 

Theo định nghĩa trên, dịch vụ NHBL chỉ được thực hiện nhờ công nghệ thông tin (CNTT), cụ thể là: 
- CNTT là tiền đề quan trọng để lưu giữ và xử lý cơ sở dữ liệu tập trung, cho phép các giao dịch trực tuyến được thực hiện; 
- CNTT hỗ trợ triển khai các sản phẩm dịch vụ NHBL tiên tiến như chuyển tiền tự động, huy động vốn và cho vay dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau; 
- Nhờ khả năng trao đổi thông tin tức thời, CNTT góp phần nâng cao hiệu quả của việc quản trị ngân hàng, tạo điều kiện thực hiện mô hình xử lý tập trung các giao dịch có tính chất phân tán như chuyển tiền, giao dịch thẻ, tiết giảm đáng kể chi phí giao dịch; 
- CNTT có tác dụng tăng cường khả năng quản trị trong ngân hàng, hệ thống quản trị tập trung sẽ cho phép khai thác dữ liệu một cách nhất quán, nhanh chóng, chính xác. 

Từ giác độ kinh tế – xã hội, dịch vụ NHBL có tác dụng đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế, đồng thời giúp cải thiện đời sống dân cư, hạn chế thanh toán tiền mặt, góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. 
Xét trên giác độ tài chính và quản trị ngân hàng, NHBL mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro tạo bởi các nhân tố bên ngoài vì đây là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Ngoài ra, NHBL giữ vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn chủ đạo cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng. 
- Đối với khách hàng, dịch vụ NHBL đem đến sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm cho khách hàng trong quá trình thanh toán và sử dụng nguồn thu nhập của mình. 
Tạp chí Stephen Timewell cũng nhận định: xu hướng ngày nay thể hiện rõ rằng, ngân hàng nào nắm được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ NHBL cho một lượng dân cư khổng lồ đang “đói” các dịch vụ tài chính tại các nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai. 

- Hoạt động NHBL ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM trên thế giới, các NHBL toàn cầu sẽ đóng vai trò chủ đạo trong danh sách 20 ngân hàng toàn cầu hàng đầu theo xếp hạng của tạp chí The Banker vào năm 2015. 
- Các NHTM Việt Nam đã và đang phát triển dịch vụ NHBL, đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân và hộ kinh doanh nhỏ, đảm bảo cho các ngân hàng quản lý rủi ro hữu hiệu, cung ứng dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng, định hướng kinh doanh, thị trường sản phẩm mục tiêu, giúp ngân hàng đạt hiệu quả kinh doanh tối ưu. 
- Tại Việt Nam, kinh tế tăng trưởng liên tục, môi trường pháp lý hoàn thiện dần, nhu cầu xã hội ngày càng tăng, thị trường dịch vụ NHBL còn nhiều tiềm năng phát triển. 

II. Thực trạng phát triển dịch vụ NHBL tại các NHTM 
1. Những thành công và hạn chế 

Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng tăng do việc áp dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, việc dỡ bỏ hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng và sự phát triển bùng nổ của CNTT, các NHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về phát triển dịch vụ NHBL. Nhìn chung, các ngân hàng bắt đầu quan tâm và tập trung khai thác thị trường bán lẻ như đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các loại hình dịch vụ mới, đa tiện ích và đã được xã hội chấp nhận như máy giao dịch tự động (ATM), internet banking, home banking, PC banking, mobile banking. Thực tế đó đã đánh dấu bước phát triển mới của thị trường dịch vụ NHBL tại Việt Nam, làm cơ sở cho việc phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư tăng lên đáng kể và chiếm 35-40% tổng vốn huy động. Hình thức huy động ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn, lượng kiều hối qua các ngân hàng tăng mạnh. Các NHTM Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối, hệ thống sản phẩm dịch vụ ngân hàng, góp phần phát triển dịch vụ NHBL, đem lại cho khách hàng ngày càng nhiều tiện ích mới và văn minh trong thanh toán. 
Đến cuối năm 2006, hầu hết các NHTM đã xây dựng phần mềm NHBL dựa trên nền tảng quy trình xử lý nghiệp vụ thiết kế của Mỹ với mục tiêu giải phóng khách hàng nhanh nhất bằng việc phân chia xử lý nghiệp vụ thành hai bộ phận: Bộ phận giao dịch tại quầy và bộ phận hỗ trợ xử lý nghiệp vụ. Hệ thống này đã tạo ra nhiều giao diện rất tiện ích, tài khoản của khách hàng được kết nối trên toàn hệ thống, tạo nền tảng mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và đưa các sản phẩm dịch vụ NHBL đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, dịch vụ NHBL của các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập: 

- Tính cạnh tranh chưa cao, chủ yếu nhờ mở rộng mạng lưới và cạnh tranh về giá cả và lãi suất, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ và công nghệ chưa phổ biến, thị trường dịch vụ NHBL thiếu ổn định, chưa có sự liên kết giữa các ngân hàng trong việc phát hành các loại thẻ và khai thác dịch vụ mới, do các ngân hàng chưa tìm được tiếng nói chung để đi đến thoả thuận kết nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật, gây lãng phí trong việc đầu tư mua sắm máy móc và chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng trong việc sử dụng thẻ; 
- Sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về chủng loại, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng; 
- Chưa có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt động NHBL, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị dịch vụ NHBL, tỷ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng vẫn còn ở mức khiêm tốn; 
- Kênh phân phối không đa dạng, hiệu quả thấp, phương thức giao dịch và cung cấp các dịch vụ chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp tại quầy, các hình thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng CNTT chưa phổ biến. Dịch vụ ngân hàng điện tử chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử dụng còn ít, nhiều ngân hàng mới chỉ hoạt động ở mức độ thử nghiệm, giao dịch thanh toán thương mại điện tử còn hạn chế, chưa ứng dụng được hình thức thanh toán qua điện thoại di động sử dụng tài khoản ngân hàng; 
- Các dịch vụ NHBL phát triển dưới mức tiềm năng. Sau 10 năm làm dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ, số người sử dụng thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương chỉ đạt trên 1 triệu khách hàng, phần lớn chủ thẻ là thương nhân và những người sống ở các đô thị lớn, dư nợ cho vay cá nhân chỉ chiếm 5-9% tổng dư nợ; 
- Hiệu quả của chính sách khách hàng còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao, thủ tục giao dịch chưa thực sự thuận tiện, bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, thiếu bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, thiếu hệ thống chỉ tiêu định lượng và đánh giá hoạt động NHBL, mức độ ứng dụng CNTT chưa cao. 
2. Những yếu tố hạn chế phát triển dịch vụ NHBL tại Việt Nam 
Nét đặc thù của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhắm tới đối tượng khách hàng cá nhân, song người dân trong nước chưa biết nhiều về dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ NHBL nói riêng. Do mức thu nhập của phần lớn dân cư còn thấp, thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến, nên khả năng phát triển và mở rộng dịch vụ NHBL còn hạn chế. 
Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các giao dịch thủ công với nhiều loại giấy tờ và quy trình xử lý nghiệp vụ phức tạp. Trong khi đó, phát triển dịch vụ NHBL đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh chóng. Với tốc độ phát triển dịch vụ như hiện nay, nhiều quy định pháp lý đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ, gây khó khăn cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới. 
Về phía các NHTM, các ngân hàng chưa xây dựng được chiến lược đồng bộ về phát triển dịch vụ NHBL, sản phẩm và dịch vụ NHBL còn đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu khách hàng, bộ máy tổ chức chưa xây dựng theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ NHBL, mạng lưới kênh cung cấp dịch vụ còn mỏng, nền tảng công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế. 
III. Một số giải pháp phát triển dịch vụ NHBL tại các NHTM Việt Nam 
1. Hoàn thiện các qui định pháp lý về nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng 
Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng do nhiều cấp và nhiều cơ quan ban hành, điều này đòi hỏi phải hoàn thiện môi trường pháp lý một cách đầy đủ, đồng bộ và thống nhất về các loại hình dịch vụ theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ phổ cập, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng và ngân hàng. 
2. Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả 
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh trên thị trường NHBL ngày càng gay gắt, phát triển dịch vụ NHBL được xác định là một định hướng chiến lược quan trọng của các NHTM Việt Nam. Trong đó, việc phát triển các kênh phân phối là một trong những giải pháp tiên quyết, đòi hỏi phải tích cực phát triển mạng lưới các chi nhánh cấp I và cấp II, chú trọng mở rộng thêm các phòng giao dịch vệ tinh với mô hình gọn nhẹ. Bên cạnh việc duy trì và mở rộng các kênh phân phối truyền thống như các chi nhánh, các phòng giao dịch, các NHTM cần nghiên cứu và ứng dụng các kênh phân phối hiện đại, đồng thời tăng cường quản lý phân phối nhằm tối đa hóa vai trò của từng kênh phân phối một hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giao dịch ở mọi lúc, mọi nơi như: 
- Tăng cường hiệu quả và khả năng tự phục vụ của hệ thống ATM nhằm cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau với chi phí rẻ hơn, nâng cấp hệ thống ATM thành những “ngân hàng thu nhỏ” trải đều khắp các tỉnh, thành phố. Đồng thời, phát triển mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ (POS) và tăng cường liên kết giữa các NHTM để nâng cao hiệu quả và mở rộng khả năng sử dụng thẻ ATM và thẻ POS; 
- Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm tận dụng sự phát triển của máy tính cá nhân và khả năng kết nối internet. Trong đó, các NHTM cần sớm đưa ra các loại dịch vụ mới để khách hàng có thể đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn số dư và thông tin về cam kết giữa ngân hàng và khách hàng, v.v; 
- Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại, đây là mô hình phổ biến với chi phí rất thấp, tiện lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại bất cứ thời gian, địa điểm nào; 

- Mở rộng các kênh phân phối qua các đại lý như, đại lý chi trả kiều hối, đại lý phát hành thẻ ATM, đại lý thanh toán. 
Quá trình phát triển và hoàn thiện dịch vụ NHBL phải được thực hiện từng bước, vững chắc, đồng thời có bước đột phá để tạo đà phát triển nhanh chóng trên cơ sở giữ vững thị phần đã có và mở rộng thị trường, tạo nhiều tiện ích cho người sử dụng dịch vụ, kết hợp hài hoà lợi ích khách hàng với lợi ích của ngân hàng và có lợi cho nền kinh tế. 
Chìa khóa của Chiến lược NHBL là phát triển CNTT, làm nền tảng phát triển kinh doanh và mở rộng các loại hình dịch vụ mới theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và từng bước triển khai mô hình giao dịch một cửa, hiện đại hóa tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo hòa nhập với các ngân hàng quốc tế trong mọi lĩnh vực. Tăng cường xử lý tự động trong tất cả qui trình tiếp nhận yêu cầu khách hàng, thẩm định và xử lý thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo tính bảo mật và an toàn trong kinh doanh. 
3. Đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ 
Đa dạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, hình thành bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát triển sản phẩm. Trong đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân phối mới để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng và phát triển tín dụng tiêu dùng. 
Phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới, góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nhanh chóng nâng cao tính thanh khoản của VND và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc thanh toán cá nhân, đẩy mạnh huy động vốn qua tài khoản tiết kiệm. Các NHTM cũng cần tăng cường hợp tác với các tổ chức và doanh nghiệp có các khoản thanh toán dịch vụ thường xuyên, ổn định số lượng khách hàng, trả lương như bưu điện, hàng không, điện lực, cấp thoát nước, kinh doanh xăng dầu. NHNN cần sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về thanh toán với cơ chế khuyến khích hơn là ngăn cấm như cho phép thu phí giao dịch tiền mặt cao hơn giao dịch chuyển khoản, hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nhằm hình thành hệ thống thanh toán quốc gia thống nhất và an toàn. 
Phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác như tăng cường thu hút nguồn kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài. Có chính sách khai thác và tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng. Triển khai dịch vụ quản lý tài sản, ủy thác đầu tư, cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng. Tăng cường bán chéo sản phẩm dịch vụ giữa ngân hàng và bảo hiểm, vì có tới 50% khách hàng sử dụng một sản phẩm duy nhất là tài khoản nhận lương. 
4. Tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng 
Do phần lớn đối tượng phục vụ của dịch vụ NHBL là các cá nhân, việc quảng bá, tiếp thị các sản phẩm dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Tăng cường chuyển tải thông tin tới công chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực và uy tín của ngân hàng, hiểu biết cơ bản về dịch vụ NHBL, nắm được cách thức sử dụng và lợi ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 
5. Các giải pháp khác 
- NHNN và các NHTM cần phối hợp với Tổng cục Thống kê trong việc xây dựng danh mục dịch vụ NHBL theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở để xây dựng hệ thống báo cáo định kỳ về các loại hình dịch vụ cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng quản trị, điều hành. 
- Xây dựng hệ thống chấm điểm khách hàng cá nhân nhằm giảm nhẹ rủi ro, có thể ra quyết định cho vay một cách nhanh chóng, chính xác. Xây dựng bộ phận quản lý và phân loại khách hàng nhằm xác định mức chi phí và lợi nhuận của từng phân đoạn khách hàng, thực hiện tốt chính sách khách hàng, triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng và chủ động tìm đến khách hàng, xác định nhu cầu của từng nhóm khách hàng, từ đó đưa ra các loại sản phẩm và dịch vụ phù hợp. 
- Mỗi NHTM cần thành lập bộ máy điều hành, nghiên cứu và thực thi việc phát triển dịch vụ NHBL, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng và chú trọng nâng cao trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ về hoạt động NHBL. 

XT-VPNHNN