Nhân viên ngân hàng HSBC đau tim sắp chết vì làm việc quá sức vẫn chỉ nghĩ về cuộc họp sáng mai với sếp chứ không phải vợ con.
Khoảnh khắc khi Jonny Frostick nhận ra mình bị đau tim, điều đầu tiên mà ông nghĩ đến là: "Mình có cuộc gặp với sếp vào ngày mai, bị thế này thì không ổn chút nào". Sau đó Frostick tiếp tục nghĩ về việc làm sao để gọi vốn cho một dự án, di chúc, và cuối cùng mới là vợ ông ta.
Frostick hiện đang là trưởng nhóm, quản lý 20 nhân viên làm việc trong các dự án dữ liệu của ngân hàng HSBC. Ông này đã kể về trải nghiệm suýt chết của mình trong một bài đăng Linkedin và ngay lập tức nó được lan truyền mạnh mẽ với gần 8 triệu lượt xem. Người đàn ông 45 tuổi này là nhân viên mới nhất trong ngành tài chính khiến mọi người phải đặt câu hỏi về văn hóa làm việc cho tới khi kiệt sức, khiến mối liên hệ giữa văn phòng và cuộc sống gia đình của người lao động bị đứt gãy.
"Thứ sáu tôi thường xuyên vẫn ngồi làm việc vào lúc 8 giờ tối, trong tình trạng kiệt sức, nghĩ về những thứ cần chuẩn bị cho thứ hai. Thế rồi những công việc phải làm nhiều qua, tôi biết mình không có thời gian để nghỉ và phải bắt đầu làm việc xuyên cuối tuần", Frostick nói trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại từ nhà của ông ấy ở Dorset. "Đó là trách nhiệm của tôi".
"Tất cả chúng ta đều mong muốn Jonathan sớm hồi phục hoàn toàn", phát ngôn viên của HSBC Heidi Ashley cho biết. "Phản ứng đối với chủ đề này cho thấy mọi người đều đang rất quan tâm tới vấn đề này và chúng tôi luôn khuyến khích mọi người đặt sức khỏe và phúc lợi của họ làm ưu tiên hàng đầu".
Frostick cho biết ông và các đồng nghiệp phải dành một lượng thời gian quá nhiều cho các cuộc họp qua Zoom và ngày làm việc có thể kéo dài đến 12 giờ. Đại dịch khiến mọi người phải làm việc từ xa khiến tình trạng quá tải họp hành xảy ra trầm trọng hơn. Ông nói: "Chúng tôi không thể có những cuộc trò chuyện khác bên cạnh bàn làm việc hoặc tại máy pha cà phê, hoặc đi dạo".
Frostick, người có ba con nhỏ, cho biết ông chịu trách nhiệm về việc làm việc quá sức và bỏ bê sức khỏe của mình mà đỉnh điểm là cơn đau tim. Bây giờ ông ấy muốn chia sẻ lời cảnh tỉnh của mình với người khác.
Frostick nói: "Tôi nợ bản thân và những người khác trách nhiệm. Điều này đã xảy ra với tôi, điều này có thể xảy ra với bạn. Bạn cần phải thay đổi điều đó". Ông muốn thúc đẩy cuộc trò chuyện xung quanh văn hóa làm việc sau đại dịch và hy vọng các nhà tuyển dụng sẽ thực hiện một cách tiếp cận linh hoạt hơn.
Trong bài đăng, Frostick tuyên bố sẽ thực hiện các thay đổi, bao gồm hạn chế các cuộc gọi Zoom, tái cấu trúc cách tiếp cận công việc của mình và dành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Bài đăng của ông đã nhận được hơn 214.000 lượt thích và tạo ra hàng ngàn tin nhắn từ những người đang suy nghĩ lại về thái độ của họ.
Frostick hiện vẫn đang hồi phục sau thời gian nằm viện, và chỉ có đủ năng lượng để ra khỏi giường trong vài giờ mỗi ngày. Ông ấy đang tận hưởng thời gian với vợ con.
Hiện đã có một số lời mời về vị trí làm giám đốc không điều hành hoặc công việc tư vấn. Cũng có người đề nghị ông ta viết một cuốn sách. Quyết định viết bài đăng trên Linkedin được đưa ra vào thời điểm ông cảm thấy bấp bênh trong cuộc sống và tài chính.
Tuy nhiên, ông không đổ lỗi cho HSBC về các vấn đề sức khỏe của mình và lạc quan về triển vọng trong tương lai.
"Tôi không nghĩ rằng điều này sẽ phản ánh xấu về nơi tôi làm việc, tôi nghĩ rằng tình huống này khá nhất quán trong toàn ngành và tôi cho đó là lý do tại sao bài viết của mình được rất nhiều người chia sẻ", ông nói. "Nếu một tổ chức không muốn thuê tôi vì tôi thực sự đã dành một chút thời gian để suy ngẫm và viết ra điều này thì đó có lẽ không phải là nơi thích hợp để tôi làm việc".
Người dùng của nhiều ngân hàng ở Việt Nam cho biết họ nhận được tin nhắn chứa liên kết lừa đảo, dẫn đến website giả mạo.
Vào lúc 18h ngày 3/2, người dùng N. Mỹ, sinh sống tại quận 5, TP.HCM nhận được tin nhắn từ đầu số ACB. "Chúng tôi phát hiện tài khoản của bạn đang tiêu dùng ở nước ngoài. Nếu không phải bạn đang tiêu dùng vui lòng nhập vào https://v-acb.com để hủy thanh toán", nội dung tin nhắn đề cập.
"Rất may là tôi đã hủy tài khoản tại ACB từ rất lâu rồi. Vì vậy, khi nhận được tin nhắn mà nơi gửi là ACB tôi phát hiện ngay đây là giả mạo. Nếu vẫn còn tài khoản ở ngân hàng trên có lẽ tôi đã bị lừa", chị Mỹ cho biết.
Hàng loạt đầu số thương hiệu (brandname) từ nhiều ngân hàng ở Việt Nam đang bị mạo danh, gửi tin nhắn lừa đảo đến người dùng.
Trong khi đó, người dùng P. Nguyên nhận được 2 tin nhắn từ đầu số mạo danh ACB với nội dung tương tự. "Tin nhắn đầu tiên được gửi tới số điện thoại đăng ký tài khoản nhận lương của mình. Tin nhắn còn lại gửi vào số điện thoại tài khoản cá nhân", ông Nguyên cho biết.
Tuy vậy, sau tin nhắn đầu tiên, vị khách may mắn trên đã ngay lập tức đối soát với kế toán của công ty và phát hiện đây là nội dung lừa đảo. "Nếu tin nhắn chứa liên kết lừa đảo gửi đến số cá nhân trước, có lẽ tôi đã làm theo", ông Nguyên cho hay.
Đêm 3/2, ngân hàng này mới bắt đầu đưa ra cảnh báo đến người dùng trên các kênh trực tuyến.
Không chỉ khách hàng của ACB, hàng loạt người dùng từ các ngân hàng khác như Sacombank, Eximbank... cũng đang trở thành mục tiêu của thủ đoạn lừa đảo tinh vi mới này.
Đáng chú ý là với đầu số của ngân hàng TPBank, tin nhắn người dùng nhận được lại đến từ một trang cá cược có tên Kim Long, với nội dung mời gọi kiếm tiền 500 triệu đến 1 tỷ đồng mỗi tháng.
Trong ngày 2/2, trả lời Zing, đại diện ngân hàng Sacombank khẳng định tin nhắn chứa đường link yêu cầu người dùng đăng nhập là giả mạo, dù đến từ đầu số brandname của chính Sacombank.
Phía Sacombank cho biết ngân hàng đang khẩn trương phối hợp với đối tác cung cấp dịch vụ, cơ quan chức năng (gồm Cục Công nghệ thông tin Ngân hàng Nhà nước, Trung Tâm Ứng cứu khẩn cấp sự cố không gian mạng Việt Nam (VNCERT), Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Bộ công an) và các bên liên quan để điều tra nguyên nhân và biện pháp ngăn chặn.
Lỗ hổng công nghệ cho phép hacker "chen ngang" vào luồng tin nhắn thương hiệu của các ngân hàng lần này được giới chuyên gia an ninh mạng nhìn nhận là rất nghiêm trọng.
"Bước quan trọng nhất trong thủ đoạn lừa đảo phising (liên kết trang web giả) là tạo lòng tin cho người dùng. Với tin nhắn thương hiệu hacker đã xây dựng được sự tin tưởng từ đó khai thác thông tin từ người dùng", Ngô Minh Hiếu, chuyên gia an ninh mạng tại TP.HCM nhận định.
Trả lời Zing, luật sư Phan Vũ Tuấn, đại diện công ty luật Phan Law cho biết hiện vẫn chưa xác định được đâu là bên chịu trách nhiệm khi người dùng mất tiền.
"Có quá nhiều chủ thể có thể dẫn đến việc khách hàng bị mất tiền. Từ ngân hàng, nhà mạng và cả người dùng đều có thể là nguyên nhân dẫn đến mất tài sản. Vì vậy, việc cấp thiết nhất hiện nay là các ngân hàng phải lập tức thông báo với người dùng về thủ đoạn lừa đảo tinh vi này nhằm nâng cao ý thức bảo vệ thông tin tài khoản", ông Tuấn cho biết.
3 kịch bản khiến hệ thống SMS brandname bị xâm nhập
Theo chuyên gia Ngô Minh Hiếu, có 3 kịch bản để khiến hệ thống SMS brandname của ngân hàng bị thao túng.
Kịch bản đầu tiên, kẻ xấu sẽ dùng kỹ thuật riêng để chen vào giữa quá trình gửi/nhận SMS, "bắt" các gói tin nhắn từ nhà mạng gửi đến nạn nhân, chỉnh sửa nội dung và tiếp tục gửi đến khách hàng. Đây là cách ít khả thi nhất.
Kịch bản thứ hai, hacker tấn công trực tiếp vào hệ thống của đơn vị cung cấp SMS OTP cho ngân hàng và thao túng nội dung gửi đến người dùng.
Ở kịch bản thứ 3, hacker sử dụng giấy tờ giả, đăng ký một tổng đài SMS khác cũng có tên giống với các ngân hàng ở Việt Nam, đăng ký tại Việt Nam hoặc nước ngoài để gửi tin nhắn đến người dùng. Lúc này, tin nhắn lừa đảo sẽ được điện thoại gom chung vào một luồng tin nhắn dưới tên ngân hàng, khiến nạn nhân không thể phân biệt được đâu là thật, giả.
Ngày 23/6/2010, trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam”, NHNN đã phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức Hội thảo tổng quan về Hiệp ước vốn Basel I và II. Bài viết này cung cấp một số vấn đề xung quanh Hiệp ước vốn Basel và việc áp dụng Hiệp ước này tại Châu Á.
1. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề này.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel: (1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992. (2) Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). (3) Tháng 6/1999, đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative Package – CP1). (4) Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2). (5) Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3). (6)Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn thiện. (7)Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. (8) Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi.
2. Những điểm cơ bản của Basel I và Basel II:
Basel I:
– Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế;
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
– Tiêu chuẩn của Basel I:(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro – “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh nghiệp 100%… Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này.
– Những thiếu sót của Basel I:Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như:không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa…
Basel II:
– Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
– Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
– Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
– Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
– Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
– Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
– Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
3. Thực tiễn áp dụng Basel II tại Châu Á:
Hầu hết các nhà quản lý ở Châu Á đều ủng hộ các mục tiêu chung của Basel II và tin tưởng rằng khuôn khổ này sẽ đưa ra những khích lệ hơn nữa để cải thiện công tác quản lý rủi ro, cũng như các thay đổi khác nhằm bổ sung cho các mục tiêu giám sát của họ. Việc thực thi Basel II ở một số nước Châu Á cụ thể như sau:
Nguồn: JICA
(SA là cách tiếp cận chuẩn hóa; IRBF là cách tiếp cận cơ bản dựa trên xếp hạng nội bộ; IRBA là cách tiếp cận nâng cao dựa trên xếp hạng nội bộ; BIA là cách tiếp cận chỉ số cơ bản; AMA là cách tiếp cận đo lường tiên tiến)
Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại (NHTM).
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Theo đó, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua.
Về phía cơ quan quản lý, mới đây, NHNN Việt Nam đã ban hành quy định mới về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010) và đang khẩn trương hoàn thiện để ban hành quy định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam.
Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II.
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Một số thiếu sót cơ bản của Basel II là thiếu yêu cầu về phí vốn thanh khoản, quá tin cậy vào cơ quan xếp hạng tín dụng và bản chất có tính chu kỳ của nó.
Mới đây, lãnh đạo hàng đầu của các nền kinh tế thuộc G20 đã hối thúc Ủy ban Basel đưa ra biện pháp cải thiện chất lượng và số lượng vốn của các ngân hàng và thắt chặt yêu cầu thanh khoản (Basel III) để các ngân hàng ứng phó tốt hơn với khủng hoảng và ngăn khủng hoảng tài chính lặp lại mà không cần đến hỗ trợ từ chính phủ. Theo dự thảo đưa ra tại G20, đến cuối năm 2012, Basel khuyến cáo các nước cần áp dụng tiêu chuẩn mới về vốn và đưa ra các biện pháp linh hoạt hơn để khuyến khích các ngân hàng thay đổi.
I.Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, xu hướng tất yếu của các NHTM
Trong nền kinh tế mở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL). Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, nên các dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng... Theo các chuyên gia kinh tế của Học viện Công nghệ Châu á – AIT, dịch vụ NHBL là cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh, khách hàng có thể tiếp cận trực tiếp với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử viễn thông và công nghệ thông tin.
Theo định nghĩa trên, dịch vụ NHBL chỉ được thực hiện nhờ công nghệ thông tin (CNTT), cụ thể là: - CNTT là tiền đề quan trọng để lưu giữ và xử lý cơ sở dữ liệu tập trung, cho phép các giao dịch trực tuyến được thực hiện; - CNTT hỗ trợ triển khai các sản phẩm dịch vụ NHBL tiên tiến như chuyển tiền tự động, huy động vốn và cho vay dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau; - Nhờ khả năng trao đổi thông tin tức thời, CNTT góp phần nâng cao hiệu quả của việc quản trị ngân hàng, tạo điều kiện thực hiện mô hình xử lý tập trung các giao dịch có tính chất phân tán như chuyển tiền, giao dịch thẻ, tiết giảm đáng kể chi phí giao dịch; - CNTT có tác dụng tăng cường khả năng quản trị trong ngân hàng, hệ thống quản trị tập trung sẽ cho phép khai thác dữ liệu một cách nhất quán, nhanh chóng, chính xác.
Từ giác độ kinh tế – xã hội, dịch vụ NHBL có tác dụng đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế, đồng thời giúp cải thiện đời sống dân cư, hạn chế thanh toán tiền mặt, góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng. Xét trên giác độ tài chính và quản trị ngân hàng, NHBL mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro tạo bởi các nhân tố bên ngoài vì đây là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Ngoài ra, NHBL giữ vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn chủ đạo cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng. - Đối với khách hàng, dịch vụ NHBL đem đến sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm cho khách hàng trong quá trình thanh toán và sử dụng nguồn thu nhập của mình. Tạp chí Stephen Timewell cũng nhận định: xu hướng ngày nay thể hiện rõ rằng, ngân hàng nào nắm được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ NHBL cho một lượng dân cư khổng lồ đang “đói” các dịch vụ tài chính tại các nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai.
- Hoạt động NHBL ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM trên thế giới, các NHBL toàn cầu sẽ đóng vai trò chủ đạo trong danh sách 20 ngân hàng toàn cầu hàng đầu theo xếp hạng của tạp chí The Banker vào năm 2015. - Các NHTM Việt Nam đã và đang phát triển dịch vụ NHBL, đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân và hộ kinh doanh nhỏ, đảm bảo cho các ngân hàng quản lý rủi ro hữu hiệu, cung ứng dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng, định hướng kinh doanh, thị trường sản phẩm mục tiêu, giúp ngân hàng đạt hiệu quả kinh doanh tối ưu. - Tại Việt Nam, kinh tế tăng trưởng liên tục, môi trường pháp lý hoàn thiện dần, nhu cầu xã hội ngày càng tăng, thị trường dịch vụ NHBL còn nhiều tiềm năng phát triển.
II. Thực trạng phát triển dịch vụ NHBL tại các NHTM 1. Những thành công và hạn chế
Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng tăng do việc áp dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về việc mở chi nhánh và các điểm giao dịch, việc dỡ bỏ hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng và sự phát triển bùng nổ của CNTT, các NHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về phát triển dịch vụ NHBL. Nhìn chung, các ngân hàng bắt đầu quan tâm và tập trung khai thác thị trường bán lẻ như đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển các loại hình dịch vụ mới, đa tiện ích và đã được xã hội chấp nhận như máy giao dịch tự động (ATM), internet banking, home banking, PC banking, mobile banking. Thực tế đó đã đánh dấu bước phát triển mới của thị trường dịch vụ NHBL tại Việt Nam, làm cơ sở cho việc phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư tăng lên đáng kể và chiếm 35-40% tổng vốn huy động. Hình thức huy động ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn, lượng kiều hối qua các ngân hàng tăng mạnh. Các NHTM Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối, hệ thống sản phẩm dịch vụ ngân hàng, góp phần phát triển dịch vụ NHBL, đem lại cho khách hàng ngày càng nhiều tiện ích mới và văn minh trong thanh toán. Đến cuối năm 2006, hầu hết các NHTM đã xây dựng phần mềm NHBL dựa trên nền tảng quy trình xử lý nghiệp vụ thiết kế của Mỹ với mục tiêu giải phóng khách hàng nhanh nhất bằng việc phân chia xử lý nghiệp vụ thành hai bộ phận: Bộ phận giao dịch tại quầy và bộ phận hỗ trợ xử lý nghiệp vụ. Hệ thống này đã tạo ra nhiều giao diện rất tiện ích, tài khoản của khách hàng được kết nối trên toàn hệ thống, tạo nền tảng mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và đưa các sản phẩm dịch vụ NHBL đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, dịch vụ NHBL của các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập:
- Tính cạnh tranh chưa cao, chủ yếu nhờ mở rộng mạng lưới và cạnh tranh về giá cả và lãi suất, cạnh tranh về chất lượng dịch vụ và công nghệ chưa phổ biến, thị trường dịch vụ NHBL thiếu ổn định, chưa có sự liên kết giữa các ngân hàng trong việc phát hành các loại thẻ và khai thác dịch vụ mới, do các ngân hàng chưa tìm được tiếng nói chung để đi đến thoả thuận kết nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật, gây lãng phí trong việc đầu tư mua sắm máy móc và chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng trong việc sử dụng thẻ; - Sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về chủng loại, chất lượng dịch vụ thấp, tính tiện ích chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng; - Chưa có chiến lược tiếp thị cụ thể trong hoạt động NHBL, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tiếp thị dịch vụ NHBL, tỷ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng vẫn còn ở mức khiêm tốn; - Kênh phân phối không đa dạng, hiệu quả thấp, phương thức giao dịch và cung cấp các dịch vụ chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp tại quầy, các hình thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng CNTT chưa phổ biến. Dịch vụ ngân hàng điện tử chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử dụng còn ít, nhiều ngân hàng mới chỉ hoạt động ở mức độ thử nghiệm, giao dịch thanh toán thương mại điện tử còn hạn chế, chưa ứng dụng được hình thức thanh toán qua điện thoại di động sử dụng tài khoản ngân hàng; - Các dịch vụ NHBL phát triển dưới mức tiềm năng. Sau 10 năm làm dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ, số người sử dụng thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương chỉ đạt trên 1 triệu khách hàng, phần lớn chủ thẻ là thương nhân và những người sống ở các đô thị lớn, dư nợ cho vay cá nhân chỉ chiếm 5-9% tổng dư nợ; - Hiệu quả của chính sách khách hàng còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao, thủ tục giao dịch chưa thực sự thuận tiện, bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, thiếu bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, thiếu hệ thống chỉ tiêu định lượng và đánh giá hoạt động NHBL, mức độ ứng dụng CNTT chưa cao. 2. Những yếu tố hạn chế phát triển dịch vụ NHBL tại Việt Nam Nét đặc thù của dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhắm tới đối tượng khách hàng cá nhân, song người dân trong nước chưa biết nhiều về dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ NHBL nói riêng. Do mức thu nhập của phần lớn dân cư còn thấp, thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến, nên khả năng phát triển và mở rộng dịch vụ NHBL còn hạn chế. Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các giao dịch thủ công với nhiều loại giấy tờ và quy trình xử lý nghiệp vụ phức tạp. Trong khi đó, phát triển dịch vụ NHBL đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh chóng. Với tốc độ phát triển dịch vụ như hiện nay, nhiều quy định pháp lý đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ, gây khó khăn cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới. Về phía các NHTM, các ngân hàng chưa xây dựng được chiến lược đồng bộ về phát triển dịch vụ NHBL, sản phẩm và dịch vụ NHBL còn đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu khách hàng, bộ máy tổ chức chưa xây dựng theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ NHBL, mạng lưới kênh cung cấp dịch vụ còn mỏng, nền tảng công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế. III. Một số giải pháp phát triển dịch vụ NHBL tại các NHTM Việt Nam 1. Hoàn thiện các qui định pháp lý về nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng do nhiều cấp và nhiều cơ quan ban hành, điều này đòi hỏi phải hoàn thiện môi trường pháp lý một cách đầy đủ, đồng bộ và thống nhất về các loại hình dịch vụ theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ phổ cập, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng và ngân hàng. 2. Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh trên thị trường NHBL ngày càng gay gắt, phát triển dịch vụ NHBL được xác định là một định hướng chiến lược quan trọng của các NHTM Việt Nam. Trong đó, việc phát triển các kênh phân phối là một trong những giải pháp tiên quyết, đòi hỏi phải tích cực phát triển mạng lưới các chi nhánh cấp I và cấp II, chú trọng mở rộng thêm các phòng giao dịch vệ tinh với mô hình gọn nhẹ. Bên cạnh việc duy trì và mở rộng các kênh phân phối truyền thống như các chi nhánh, các phòng giao dịch, các NHTM cần nghiên cứu và ứng dụng các kênh phân phối hiện đại, đồng thời tăng cường quản lý phân phối nhằm tối đa hóa vai trò của từng kênh phân phối một hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giao dịch ở mọi lúc, mọi nơi như: - Tăng cường hiệu quả và khả năng tự phục vụ của hệ thống ATM nhằm cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau với chi phí rẻ hơn, nâng cấp hệ thống ATM thành những “ngân hàng thu nhỏ” trải đều khắp các tỉnh, thành phố. Đồng thời, phát triển mạng lưới các điểm chấp nhận thẻ (POS) và tăng cường liên kết giữa các NHTM để nâng cao hiệu quả và mở rộng khả năng sử dụng thẻ ATM và thẻ POS; - Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm tận dụng sự phát triển của máy tính cá nhân và khả năng kết nối internet. Trong đó, các NHTM cần sớm đưa ra các loại dịch vụ mới để khách hàng có thể đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn số dư và thông tin về cam kết giữa ngân hàng và khách hàng, v.v; - Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại, đây là mô hình phổ biến với chi phí rất thấp, tiện lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại bất cứ thời gian, địa điểm nào; - Mở rộng các kênh phân phối qua các đại lý như, đại lý chi trả kiều hối, đại lý phát hành thẻ ATM, đại lý thanh toán. Quá trình phát triển và hoàn thiện dịch vụ NHBL phải được thực hiện từng bước, vững chắc, đồng thời có bước đột phá để tạo đà phát triển nhanh chóng trên cơ sở giữ vững thị phần đã có và mở rộng thị trường, tạo nhiều tiện ích cho người sử dụng dịch vụ, kết hợp hài hoà lợi ích khách hàng với lợi ích của ngân hàng và có lợi cho nền kinh tế. Chìa khóa của Chiến lược NHBL là phát triển CNTT, làm nền tảng phát triển kinh doanh và mở rộng các loại hình dịch vụ mới theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và từng bước triển khai mô hình giao dịch một cửa, hiện đại hóa tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, đảm bảo hòa nhập với các ngân hàng quốc tế trong mọi lĩnh vực. Tăng cường xử lý tự động trong tất cả qui trình tiếp nhận yêu cầu khách hàng, thẩm định và xử lý thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo tính bảo mật và an toàn trong kinh doanh. 3. Đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ Đa dạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân, hình thành bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát triển sản phẩm. Trong đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân phối mới để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng và phát triển tín dụng tiêu dùng. Phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới, góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nhanh chóng nâng cao tính thanh khoản của VND và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc thanh toán cá nhân, đẩy mạnh huy động vốn qua tài khoản tiết kiệm. Các NHTM cũng cần tăng cường hợp tác với các tổ chức và doanh nghiệp có các khoản thanh toán dịch vụ thường xuyên, ổn định số lượng khách hàng, trả lương như bưu điện, hàng không, điện lực, cấp thoát nước, kinh doanh xăng dầu. NHNN cần sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về thanh toán với cơ chế khuyến khích hơn là ngăn cấm như cho phép thu phí giao dịch tiền mặt cao hơn giao dịch chuyển khoản, hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nhằm hình thành hệ thống thanh toán quốc gia thống nhất và an toàn. Phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác như tăng cường thu hút nguồn kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài. Có chính sách khai thác và tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng. Triển khai dịch vụ quản lý tài sản, ủy thác đầu tư, cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng. Tăng cường bán chéo sản phẩm dịch vụ giữa ngân hàng và bảo hiểm, vì có tới 50% khách hàng sử dụng một sản phẩm duy nhất là tài khoản nhận lương. 4. Tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng Do phần lớn đối tượng phục vụ của dịch vụ NHBL là các cá nhân, việc quảng bá, tiếp thị các sản phẩm dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Tăng cường chuyển tải thông tin tới công chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực và uy tín của ngân hàng, hiểu biết cơ bản về dịch vụ NHBL, nắm được cách thức sử dụng và lợi ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 5. Các giải pháp khác - NHNN và các NHTM cần phối hợp với Tổng cục Thống kê trong việc xây dựng danh mục dịch vụ NHBL theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở để xây dựng hệ thống báo cáo định kỳ về các loại hình dịch vụ cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng quản trị, điều hành. - Xây dựng hệ thống chấm điểm khách hàng cá nhân nhằm giảm nhẹ rủi ro, có thể ra quyết định cho vay một cách nhanh chóng, chính xác. Xây dựng bộ phận quản lý và phân loại khách hàng nhằm xác định mức chi phí và lợi nhuận của từng phân đoạn khách hàng, thực hiện tốt chính sách khách hàng, triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng và chủ động tìm đến khách hàng, xác định nhu cầu của từng nhóm khách hàng, từ đó đưa ra các loại sản phẩm và dịch vụ phù hợp. - Mỗi NHTM cần thành lập bộ máy điều hành, nghiên cứu và thực thi việc phát triển dịch vụ NHBL, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng và chú trọng nâng cao trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ về hoạt động NHBL.
Tình hình kinh tế quốc tế và trong nước: tốc độ tăng trưởng, lãi suất, lạm phát…
Phân tích tình hình kinh tế của địa phương, tốc độ phát triển, thu nhập bình quân trên đầu người, mức độ ổn định kinh tế của khu vực…
Phân tích ảnh hưởng của nền kinh tế đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Tình hình doanh nghiệp
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá khứ và hiện tại.
1.3 Nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh
a. Chiến lược phát triển
Chiến lược phát triển của doanh nghiệp dẫn đến nhu cầu mở rộng kinh doanh và mở thêm đại lý.
b. Lựa chọn hướng mở rộng
Nêu nên các lý do tại sao mở thêm chi nhánh ở vị trí hiện tại là hợp lý. (Điểm mạnh, điểm yếu, nhân khẩu, kinh tế…)
2.0 Phân tích ngành
2.1 Phân tích đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường là ai?
Điểm mạnh điểm yếu của đối thủ?
Đặc điểm, xu hướng cạnh tranh trong ngành là gì? (VD: tập trung cải tiến công nghệ hay tập trung giảm giá thành sản phẩm…)
2.2 Nhà cung cấp
Các nhà cung cấp chính của doanh nghiệp (đối tác bán hàng, đối tác cung cấp các tư liệu sản xuất như máy móc, giấy…)
Cung cấp sản phẩm cho riêng doanh nghiệp hay cho cả đối thủ cạnh tranh.
Uy tín của các nhà cung cấp như thế nào? Có ảnh hưởng gì đến hoạt động của doanh nghiệp không?
2.3 Phân tích khách hàng
Khách hàng của công ty là ai?
Khả năng đàm phán về giá cũng như lợi thế của khách hàng có lớn không? (nếu thị trường độc quyền thì thị khả năng đàm phán là không lớn, ngược lại thị trường phân tán thì khách hàng có lợi thế đàm phán tốt hơn)
2.4 Sản phẩm thay thế
1 vài sản phẩm dịch vụ chính có thể thay thế cho sản phẩm dịch vụ của công ty
2.5 Tương lai của ngành
Phân tích xu hướng tương lai của ngành.
3.0 Chiến lược Marketing
3.1 Phân tích khách hàng mục tiêu
a. Khách hàng mục tiêu
Khách hàng mục tiêu của công ty là ai?
b. Qui mô thị trường
Qui mô thị trường là bao nhiêu? (Dựa trên số liệu thống kê nhân khẩu học hoặc các số liệu thị trường để tính toán.
c. Phân tích khách hàng mục tiêu
Các nhóm khách hàng tiêu biểu (viên chức hay công nhân, nam hay nữ…)
Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng (giá cả, thương hiệu, chất lượng, mẫu mã…)
Quá trình quyết định mua hàng (các bước trong quyết định mua hàng của khách hàng)
3.2 Chiến lược marketing
Chiến lược marketing tổng thể của doanh nghiệp là gì? (chi phí tối thiểu, hiệu quả tối đa)
4p trong marketing
a. Sản phẩm
Lựa chọn sản phẩm như thế nào? Sản phẩm nào thu hút khách hàng? Sản phẩm nào mang lại hiệu quả kinh tế?…
b. Giá
Định giá như thế nào là tối ưu? Định giá theo chi phí, định giá theo giá trị, định giá theo thị trường…
c. Địa điểm
Vị trí ở đâu là tối ưu nhất? thu hút khách hàng nhất, chi phí hợp lý nhất…
d. Quảng bá hình ảnh
Dùng chiến lược gì để quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp?
3.3 Các kênh marketing chính
Sử dụng kênh marketing nào để thu hút khách hàng? (bảng hiệu, loa, tờ rơi…)
3.4 Chiến lược thương hiệu
Cách thức đồng bộ thương hiệu ở chi nhánh với tổng công ty.
3.5 Kế hoạch thực hiện chương trình marketing
Sơ đồ giant tổ chức chương trình marketing
Tháng
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Hoàn thiện cấu trúc và nội dung website.
Nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống nhận diện thương hiệu bao gồm logo và slogan.
Tiến hành các hoạt động seo website: nghiên cứu phân tích từ khóa, mua từ khóa, đặt back link, trao đổi banner.
Thiết kế chương trình marketing: theo sự kiện đặc biệt và hàng tháng
Chạy quảng cáo facebook
Đặt banner hướng đối tượng (chạy thử nghiệm)
Hợp tác và chạy chương trình marketing theo mô hình chuỗi: tìm đối tác, lên kế hoạch hợp tác, chạy chương trình.
Tuyển nhân viên marketing
Tính toán và phân bổ chi phí marketing.
4.0 Chiến lược bán hàng
4.1 Chiến lược bán hàng
Các cách thức để gia tăng doanh số bán hàng.
4.2 Các kênh bán hàng
Bán tại cửa hàng? Qua hệ thống nhân viên bán hàng?
4.3 Tổ chức chương trình bán hàng (nếu có. VD: chương trình bán hàng giảm giá, khuyến mãi, chiết khấu cho đại lý…)
4.4 Kế hoạch bán hàng
Mục tiêu bán hàng mà công ty mong muốn đạt được trong ngắn và dài hạn?
Cách thức để đạt được mục tiêu mà công ty đề ra?
Những việc quan trọng mà công ty cần phải tập trung cải tiến về mặt bán hàng.
5.0 Kế hoạch nhân sự
5.1 Mô hình tổ chức
1.1 Sơ đồ tổ chức
5.2 Nhu cầu nhân sự
Nhân sự cần bao nhiêu người? Đội ngũ quản lý gồm những ai?
5.3 Chính sách nhân sự
Tiền lương và tổng quĩ lương cho chi nhánh là bao nhiêu?
Có nhu cầu mở rộng hệ thống nhân sự không? Mở rộng bao nhiêu?
Chế độ thời gian làm việc, qui định về ngày nghỉ…
Chính sách đào tạo, tuyển dụng, khen thưởng của công ty là gì?
5.4 Phong cách lãnh đạo và văn hóa doanh nghiệp
6.0 Kế hoạch tài chính
Phần tài chính thì căn cứ vào báo cáo tài chính trong quá khứ và các thông tin liên quan đến hoạt động bán hàng: doanh thu, doanh số… để cân đối với kế hoạch marketing, bán hàng, nhân sự…
6.1 Nhu cầu đầu tư
Nhu cầu đầu tư là bao nhiêu?
Phân bổ vào những việc gì?
Phân tích các chỉ số đầu tư? (ROA,ROE, NPV, IRR…)
6.2 Phân tích điểm hoà vốn
6.3 Kết quả hoạt động kinh doanh dự kiến
Biểu đồ: Lãi ròng năm 2014
6.4 Bảng lưu chuyển tiền tệ dự kiến
6.5 Bảng cân đối kế toán dự kiến
Các bảng tính tài chính chỉ mang tính tham khảo tùy công ty mà có bảng tính phù hợp