Tỷ suất sinh lời
doanh thu thuần Nếu doanh thu thuần được coi là 100% thì giá vốn
hàng bán, chi phí tài chính, chi phí bán hàng, lợi nhuận là bộ phận cấu thành
nên doanh thu. Thông thường, việc phân tích lợi nhuận/doanh thu không chỉ dừng
lại ở việc phân tích tỷ lệ lợi nhuận ròng chiếm bao nhiêu % doanh thu mà quan
trọng hơn là phân tích cả lợi nhuận gộp, các yếu tố chi phí khác trên doanh thu
để xem xét tình hình lợi nhuận của Công ty đang bị ảnh hưởng bởi chi phí NVL,
khấu hao hay do chi phí tài chính hay do chi phí quản lý doanh nghiệp quá cồng
kềnh…. Khi một doanh nghiệp mới hoạt động hay có một sản
phẩm mới thì tỷ số lợi nhuận/doanh thu thường thấp (hoặc thua lỗ) do công suất
huy động MMTB thấp, sản phẩm đang thâm nhập thị trường, nhu cầu chưa cao, giá
bán thấp để chiếm lĩnh thị phần dẫn đến doanh thu đạt thấp trong khi chi phí cố
định: khấu hao, lãi vay ở mức cao. Nhưng nếu sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị
trường, và nếu kiểm soát tốt các yếu tố chi phí gián tiếp thì tỷ số sẽ có xu hướng
tăng. Nếu một công ty có nhiều sản phẩm hoặc kinh
doanh trên nhiều lĩnh vực và mỗi lĩnh vực có sổ sách kế toán riêng đầy đủ thì
việc phân tích tỷ số của mỗi sản phẩm, lĩnh vực sẽ cho 1 cái nhìn tổng thể về
các lĩnh vực nào cho kết quả kinh doanh tốt cần phát triển mạnh, các lĩnh vực
nào kết quả kinh doanh chưa tốt cần hạn chế hoặc chuyển hướng đầu tư. Không phải việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu
lúc nào cũng phản ánh doanh nghiệp đang kinh doanh tốt và việc giảm tỷ suất lợi
nhuận/doanh thu lúc nào cũng phản ánh doanh nghiệp đang kinh doanh kèm hiệu quả
mà việc xem xét tăng/giảm tỷ suất sinh lời doanh thu là tốt hay xấu cũng cần
phân tích rõ lý do của việc tăng/giảm tỷ số. - Việc tăng tỷ suất lợi nhuận doanh thu là tốt nếu: + Lợi nhuận và doanh thu cùng tăng + Doanh thu giảm do doanh nghiệp không tiếp tục
vào lĩnh vực đầu tư không hiệu quả. Lợi nhuận trong trường hợp này có thể giảm
nhưng giảm ít hơn doanh thu. Hoặc lợi nhuận lại tăng lên do giảm lĩnh vực đầu
tư không hiệu quả lên quản lý chi phí tốt hơn. - Việc tăng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là xấu nếu:
việc tăng là do lợi nhuận và doanh thu cùng giảm nhưng lợi nhuận giảm chậm hơn
doanh thu với các lý do giảm như sau: + Công ty bị giảm năng lực cạnh tranh, năng lực
sản xuất, + Hàng hoá bán ra tiêu thụ kém, + Công ty phải giảm giá bán để chiếm lĩnh lại thị
phần Tuy nhiên do công ty vẫn đang quản lý tốt chi
phí quản lý, chi phí tài chính …. nên tạm thời lợi nhuận có giảm nhưng tốc độ
giảm chậm hơn doanh thu. - Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu không phải
là một dấu hiệu chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Công ty bị giảm sút nếu: + Lợi nhuận và doanh thu đều tăng nhưng lợi nhuận
tăng chậm hơn doanh thu do hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được mở rộng
nhưng do vay nợ nhiều hơn nên chi phí lãi vay nhiều hơn, hay do mới mỏ rộng quy
mô hoạt động nên công suất sản xuất chưa cao, chi phí quản lý, chi phí khấu hao
còn lớn. + Trong trường hợp doanh thu tăng nhưng lợi nhuận
không tăng thì cũng không phải là dấu hiệu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu
quả. Để kết luận phải xem xét cơ cấu chi phí và bản chất việc giảm lợi nhuận là
do giá vốn tăng hay do doanh nghiệp quản lý tài chính, quản lý hoạt động không
tốt dẫn đến các chi phí hoạt động quá cao so với quy mô tăng trưởng doanh thu. + Ngay cả khi doanh thu và lợi nhuận đều giảm
cũng không phải là dấu hiệu kinh doanh của công ty đang xấu nếu do Công ty đang
thu hẹp hoạt động, chuyển hướng đầu tư vào các lĩnh vực hiệu quả, dừng hoạt động
những lĩnh vực, mặt hàng kém hiệu quả. - Việc giảm tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là một dấu
hiệu chứng tỏ hoạt động kinh doanh của đơn vị đang có chiều hướng xấu nếu: + Doanh thu và lợi nhuận đều giảm do công ty
kinh doanh không tốt, sản phẩm không bán được, khả năng cạnh tranh giảm sút + Lợi nhuận giảm thì dù doanh thu tăng cũng
không phải là dấu hiệu tốt mà ngược lại nó còn cho thấy công ty đang đầu tư vào
những mảng kinh doanh kém hiệu quả.
Tỷ suất sinh lời tổng tài sản: Lợi nhuận
sau thuế/tổng tài sản Khi xem xét chỉ tiêu này cần chú ý rằng: đối với
doanh nghiệp có quy mô tài sản lưu động quá lớn, hoặc tỷ trọng vốn vay cao thì
tỷ số này thường rất thấp do chi phí lãi vay cao làm lợi nhuận thấp - Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là tốt nếu:
công ty tăng vốn chủ sở hữu, giảm nợ vay làm giảm chi phí lãi vay nên lợi nhuận
đạt được cao hơn. - Tỷ suất sinh lời tổng tài sản tăng là dấu hiệu
thể hiện công ty làm ăn không hiệu quả nếu: công ty giảm nợ vay do hoạt động
kinh doanh bị thu hẹp, doanh thu lợi nhuận giảm nhưng giảm thấp hơn tốc độ giảm
tổng tài sản. - Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm không phải
là dấu hiệu tồi nếu: việc giảm là do công ty tăng VCSH nên tổng nguồn vốn tăng
tương ứng tổng tài sản tăng, nhưng mức lợi nhuận tăng chậm hơn tăng TTS - Tỷ suất sinh lời tổng tài sản giảm là dấu hiệu
tồi nếu: công ty tăng nợ vay, vốn CSH giảm do kinh doanh lỗ vốn, hoặc HĐKD mở rộng
những đầu tư vào những lĩnh vực không hiệu quả nên lợi nhuận không tăng, thậm
chí còn giảm so với trước. Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu Đây là chỉ số được các nhà đầu tư, cổ đông của
doanh nghiệp quan tâm nhất vì nó phản ánh những gì mà họ sẽ được hưởng. Nếu
Công ty đạt được một tỷ lệ lợi nhuận trên vốn hợp lý, nó có thể: - Duy trì trả cổ tức đều đặn cho các cổ đông - Duy trì tỷ lệ lợi nhuận để lại hợp lý cho sự
phát triển của doanh nghiệp - Tránh việc tìm kiếm các nguồn bổ sung từ bên
ngoài có chi phí vốn cao - Đưa ra một hình ảnh lành mạnh để thu hút đối
tác, nhân viên và giới tài chính … Kết quả tính toán tỷ suất này càng lớn chứng tỏ
hiệu quả sử dụng vốn tự có càng cao. Ta thường dùng chi phí cơ hội của việc cho
vay trên thị trường tiền tệ (trái phiếu kho bạc, tiền gửi tiết kiệm …) làm mốc
so sánh với chỉ số trên để xác định hiệu quả vốn tự có. Một doanh nghiệp phải
có tỷ số cao hơn lãi suất tiết kiệm thì mới được coi là đạt hiệu quả.
Việc xem xét chỉ tiêu này có 1 ý nghĩa quan trọng
là xác định mục tiêu kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp là tối đa hoá lợi
nhuận hay tối đa hoá quy mô. Nếu doanh nghiệp có tỷ số này càng cao, lợi nhuận
để lại càng lớn thì quy mô vốn tự có sẽ ngày càng tăng kết hợp với hoạt động đầu
tư thận trọng, thì tỷ lệ VCSH/tổng nguồn vốn sẽ tăng dần, mức độ rủi ro cho vay
của doanh nghiệp giảm. Ngược lại nếu doanh nghiệp có tỷ số này thấp, khả năng
tích luỹ hạn chế, trong khi đó quy mô đầu tư mở rộng thì Doanh nghiệp sẽ dùng
nguồn vốn vay bên ngoài nhiều hơn sẽ làm cho tỷ trọng vốn CSH/tổng nguồn vốn giảm,
kinh doanh không bền vững làm tăng rủi ro khi cho vay Tuy nhiên tỷ số này sẽ không phản ánh đúng thực
chất doanh nghiệp nếu doanh nghiệp hoạt động bằng vốn vay là chủ yếu, VCSH quá
thấp. Ngoài ra khi phân tích cần so sánh với tỷ số này
năm trước. Tỷ suất sinh lời vốn CSH tăng hay giảm chưa thể
hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay không mà quan trọng là xác định
lý do làm tỷ số này tăng hay giảm để từ đó có kết luận phù hợp. - ROE tăng là tốt nếu lợi nhuận tăng, VCSH không
bị giảm đi, thậm chí còn tăng lên. - ROE tăng là xấu nếu công ty kinh doanh thua lỗ,
phải thu hẹp hoạt động, doanh thu giảm, lỗ vốn nên VCSH giảm và VCSH giảm nhiều
hơn lợi nhuận. - ROE giảm là tốt nếu cả lợi nhuận và VCSH đều
tăng nhưng VCSH tăng nhanh hơn tốc độ tăng lợi nhuận. - ROE giảm là xấu nếu cả lợi nhuận và VCSH đều
giảm do kinh doanh thua lỗ, thu hẹp quy mô … <- PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Hiệu quả tài sản cố định được đánh giá qua 2 chỉ
tiêu sau: - Sức sản xuất TSCĐ: Doanh thu/Giá trị TSCĐ - Sức sinh lợi TSCĐ: Lơi nhuận sau thuế/giá trị
TSCĐ Về nguyên tắc, các tỷ số càng cao chứng tỏ hiệu
quả sử dụng càng tốt. Tuy nhiên việc phân tích các tỷ số hiệu quả tài sản cố định
không chỉ dừng lại ở 2 kết quả trên mà vấn đề là phải xác định được cấu trúc của
các tỷ số đó.
Đối với doanh nghiệp vừa kinh doanh thương mại vừa
sản xuất công nghiệp, hoạt động thương mại sẽ cho kết quả cao hơn, trong khi đó
hoạt động sản xuất sẽ thấp hơn. Việc lấy số liệu từ bảng cân đối sẽ tổng hợp cả
2 lĩnh vực trên và đưa ra kết quả không phản ánh chính xác thực tế kinh doanh của
Công ty. Vì vậy đối với những trường hợp này nếu có thể được sẽ tách 2 mảng
kinh doanh để phân tích riêng rẽ. Các kết quả từ tỷ số trên cũng có thể không
chính xác trong các trường hợp như: TSCĐ mới được đưa vào sản xuất, công suất
huy động còn thấp hoặc tài sản đã được sử dụng lâu năm, sắp thanh lý không còn
sử dụng. <- PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Các tỷ số phản ánh hiệu quả vốn lưu động thể hiện
qua các chỉ tiêu sau: 2.1 Vòng quay các khoản phải thu khách
hàng/kỳ thu tiền bình quân
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu/(phải thu khách hàng bình quân đầu kỳ
+ cuối kỳ)
Kỳ thu tiền bình quân = 12 tháng/ vòng quay các khoản phải thu Tỷ số này cho biết thời gian chậm trả trung bình
các khoản phải thu hoặc thời gian trung bình để chuyển các khoản phải thu thành
tiền mặt - Thời gian thu hồi công nợ ngắn có thể cung cấp
những thông tin sau: + Chính sách tín dụng bán trả chậm cho khách
hàng của doanh nghiệp quá khắt khe: Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, đặc biệt khi mà doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp lớn, hoạt
động lâu dài, có thị phần lớn. + Việc thu hồi công nợ của doanh nghiêp rất hiệu
quả: tìm hiểu thêm về cách thức thu hồi công nợ của công ty. + Khả năng sinh lời và điều kiện tài chính của
khách hàng tốt: Liên hệ với tỷ suất sinh lời, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi
nhuận để kết luận. + Doanh nghiệp chỉ hoặc thường bán hàng trả ngay
bằng tiền mặt: xem xét loại hình kinh doanh và phương thức bán hàng, mạng lưới
phân phối của công ty. - Thời gian thu hồi công nợ dài có thể cung cấp
những thông tin sau: + Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp
là dễ dàng: xem xét cụ thể thị trường của hàng hoá doanh nghiệp đang kinh
doanh, nếu doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường thì chính sách bán hàng linh
hoạt là hợp lý. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp đang có thị phần vững chắc, khi thay
đổi về chính sách bán hàng phải xem xét cụ thể khả năng cạnh tranh của khách
hàng, các biến động về giá cả, chất lượng của hàng hoá khách hàng đang kinh
doanh, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, khả năng bán hàng, tình hình
tài chính và định hướng kinh doanh của doanh nghiệp cũng như xem xét tình hình
tài chính của bạn hàng, các phát sinh phải thu chi tiết, tuổi nợ các khoản phải
thu để xác định lý do thực chất của việc thay đổi chính sách bán hàng. + Việc thu hồi công nợ của doanh nghiệp không hiệu
quả: tìm hiểu về cách thức thu hồi công nợ của công ty để có hướng tư vấn kịp
thời. 2.2 Vòng quay hàng tồn kho/thời gian tồn
kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn/Hàng tồn kho bình quân
Thời gian tồn kho bình quân = 12 tháng/vòng quay hàng tồn kho Tỷ số này chobiết doanh nghiệp lưu hàng tồn kho,
gồm có NVL và hàng hoá trong bao nhiêu tháng. Để duy trì hoạt động kinh doanh
thì hàng hoá cần phải trữ ở một số lượng cần thiết nào đó. Tuy nhiên, lưu giữ
quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc vốn sử dụng kém hiệu quả (dòng tiền
sẽ giảm đi do vốn kém hoạt động và như vậy lãi vay sẽ tăng lên). Điều này làm
tăng chi phí lưu giữ hàng tồn kho và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn kho này
do có thể không hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như thị trường kém đi. Do vậy tỷ số
này cần xem xét để xác định thời gian tồn kho có hợp lý theo chu kỳ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ bình quân chung của ngành cũng như mức tồn
kho hợp lý đảm bảo cung cấp được bình thường.
2.3 Vòng quay vốn lưu động và số ngày hoàn
thành chu kỳ kinh doanh
Vòng quay VLĐ = Doanh thu/VLĐ bình quân Vòng quay VLĐ xác định số ngày hoàn thành 1 chu
kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay VLĐ quá thấp chứng tỏ khả năng thu hồi
tiền hàng, khả năng luân chuyển hàng hoá thấp, luân chuyển vốn chậm nên chi phí
về vốn tăng lên làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay VLĐ khác nhau đối với các doanh nghiệp
kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau, ví dụ vòng quay VLĐ của các doanh nghiệp
kinh doanh thương mại bao giờ cũng phải cao hơn vòng quay VLĐ của các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, XDCB. Khi xem xét vòng quay VLĐ của 1 doanh nghiệp, cần
so sánh với mức bình quân chung của ngành cũng như các chính sách bán hàng,
tiêu thụ hàng của doanh nghiệp để kết luận chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp
là ở mức bình thường, tốt hay không tốt. Đặc biệt, đối với mặt hàng kinh doanh có tính thời
điểm, mùa vụ cao thì việc xác định vòng quay VLĐ thực chất khi tính toán hạn mức
tín dụng cho khách hàng còn cần phải dựa vào các hợp đồng mua bán hàng hoá, thời
gian tồn kho thực tế của khách hàng
2.4 Vòng quay khoản phải trả và kỳ trả nợ
bình quân Vòng quay khoản phải trả = giá vốn/khoản phải trả
bình quân Số ngày phải hoàn trả nợ = 12 tháng/vòng quay
khoản phải trả Vòng quay phải trả và số ngày phải hoàn trả nợ
là chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh
khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối lập với vòng quay phải thu và hàng tồn kho
có xu hướng càng tăng càng tốt thì đối với các doanh nghiệp càng được chậm trả
nợ càng tốt nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng quay phải
trả thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày hoàn trả nợ kéo dài có thể là dấu hiệu
cho thấy công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung cấp nên được
cho chậm trả, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy khách hàng đang khó trả
các khoản nợ đến hạn. Để khẳng định được khả năng thanh toán nợ của khách hàng
cần phân tích chi tiết các khoản phải trả, các khách hàng cho nợ, doanh số phát
sinh nợ có và tuổi nợ các khoản phải trả, đối chiếu với hợp đồng mua hàng, xem
xét tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, khả năng thu hổi công nợ …. để có
kết luận về việc vòng quay phải trả thấp là do khách hàng được cho chậm trả hay
do khách hàng kinh doanh yếu kém mất khả năng thanh toán các khoản nợ. <-PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP