Tái cấu trúc ngân hàng là một câu chuyện lớn và thực hiện trong quá trình kéo dài. Trong bài viết này, chỉ xin đề cập tới một vấn đề nhỏ là hệ thống tổ chức kinh doanh của các ngân hàng.
Đây được xem là một vấn đề tưởng như là hình thức nhưng liên quan sâu xa đến cơ cấu hoạt động, quyết định hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng
Chi nhánh, phòng giao dịch hay quỹ tiết kiệm?
Đặc thù lớn nhất của các ngân hàng: sự trải rộng của của các điểm giao dịch. Đây là đặc tính mà không có một doanh nghiệp (DN) nào khác có thể đạt phổ rộng về sự hiện diện về mặt điểm giao dịch như ngân hàng (NH). Và nó cũng kéo theo sự lập lờ về tổ chức của các ngân hàng
Thông thường, hệ thống của một ngân hàng thường bao gồm các cấp: hội sở chính;Sở Giao dịch và các chi nhánh; các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc Sở Giao dịch, các chi nhánh.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 mới chỉ đề cập rằng các ngân hàng thương mại được phép thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị sự nghiệp ở trong nước, chi nhánh, văn phòng đại diện, hay các hình thức hiện diện khác ở nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước cũng đã cố cho ra được thông tư quy định về mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đến nay, văn bản chính thức vẫn chưa được ban hành dù đã 2 lần xin ý kiến. Điều này chứng tỏ, việc quy định các đơn vị kinh doanh của ngân hàng thương mại không hề dễ dàng.
Điều này sẽ dẫn đến tình trạng lách luật và “lờ vờ” về mặt hoạt động. Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại đang lập lờ nhiều nhất là giữa mô hình “Quỹ tiết kiệm” và “Phòng Giao dịch”. Theo quy định, quỹ tiết kiệm không được thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nhìn cơ cấu tổ chức của phần lớn quỹ tiết kiệm thì đều thấy xuất hiện chức danh: chuyên viên quan hệ khách hàng. Đây bản chất là một dạng cán bộ tín dụng. Chuyên viên này thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ từ tư vấn, lập hồ sơ, thẩm định hồ sơ lần đầu. Cái khác duy nhất là người quản lý ký sẽ lãnh đạo chi nhánh mà quỹ tiết kiệm trực thuộc. Điều này sẽ nghiễm nhiên coi hoạt động tín dụng là của chi nhánh.
Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại đang lập lờ nhiều nhất là giữa mô hình “Quỹ tiết kiệm” và “Phòng Giao dịch” |
Ngoài ra, các nghiệp vụ khác, quỹ tiết kiệm hoạt động hoàn toàn giống với các phòng giao dịch: nhận tiền gửi, chiết khấu giấy tờ có giá do tổ chức mình phát hành, thanh toán, phát hành thẻ... Trong hệ thống các chỉ tiêu doanh số được giao của một chuyên viên quan hệ khách hàng ở quỹ tiết kiệm, ở phòng giao dịch, ở chi nhánh hoàn toàn giống nhau: huy động phải đạt bao nhiêu tỷ, phải phát hành được bao nhiêu thẻ, phải giải ngân được bao nhiêu tiền… Sự khác nhau chỉ về mặt khối lượng. Điều này chứng tỏ, trên thực tế, các hoạt động nghiệp vụ của một quỹ tiết kiệm không hề kém một phòng giao dịch.
Bản thân nếu đặt ra câu hỏi “Sự khác biệt giữa quý tiết kiệm và phòng giao dịch” thì các nhân viên ngân hàng cũng khó mà trả lời được, bởi đơn giản, nghiệp vụ giống hệt nhau.
Câu hỏi sẽ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước siết chặt điều kiện mở phòng giao dịch, nhưng lại không quá siết chặt việc mở quỹ tiết kiệm thì bản thân việc siết này không còn có ý nghĩa và đẩy các ngân hàng vào thế lách luật, và đã từng có phong trào mở quỹ tiết kiệm của các ngân hàng.
Một dạng tổ chức nữa mà chúng tôi quan sát được là dạng “Phòng giao dịch cấp chi nhánh”. Ở đây, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm thường chỉ dao động khoảng 4 đến 10 người. Chúng tôi có theo dõi và thấy một đặc trưng điển hình của phòng giao dịch: Giám đốc Phòng giao dịch: 1 người; 1 người là Phó Giám đốc hoặc Kiểm soát viên thường phụ trách công tác kế toán của chi nhánh, phê duyệt các giao dịch của giao dịch viên hàng ngày; 1-2 chuyên viên quan hệ khách hàng; 1-2 giao dịch viên; ngoài ra tùy ngân hàng có thể có nhân viên quỹ, chuyên viên hỗ trợ tín dụng... Đặc tính cơ bản: Phòng giao dịch không có nhân viên lái xe, không được cấp xe ôtô riêng.
Tuy nhiên, khi đứng trước cửa một phòng giao dịch của ngân hàng S, chúng tôi thấy được được có đầy đủ các phòng ban như một cấp chi nhánh: Phòng Dịch vụ khách hàng để tiến hành giao dịch hàng ngày, phòng khách hàng cá nhân, phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng kế toán, rồi cả bộ phận hành chính, chuyên viên nhân sự, lái xe, có được hội sở cấp xe riêng... rất đầy đủ. Khi báo cáo số lượng nhân sự, các phòng giao dịch này sẽ có số lượng lớn hơn các phòng giao dịch khác. Từ đấy, chúng ta có quyền nghi ngờ về việc ngân hàng “lách” luật, tổ chức chi nhánh, nhưng chỉ đăng ký là Phòng Giao dịch.
Ngoài ra, khái niệm Sở Giao dịch cũng cần phải được luật hóa, được quy định chính thức phạm vi hoạt động để làm rõ chức năng của đơn vị này. Cụm từ “Sở Giao dịch” mới chỉ xuất hiện trong Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về tổ chức của ngân hàng thương mại.
Trên thực tế, Sở Giao dịch có thể được gọi dưới các tên như Trung tâm Kinh doanh Hội sở, Trung tâm Giao dịch Hội Sở... có ngân hàng chỉ có 1 Sở Giao dịch, nhưng nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước lại có cả Sở Giao dịch 2, Sở Giao dịch 3... Và cũng trên thực tế, Sở Giao dịch bản chất cũng chỉ là một dạng chi nhánh.
Số lượng bao nhiêu thì đủ?
Các ngân hàng đang đua nhau mở thêm các điểm giao dịch. Và hiện tại, với các điểm giao dịch, máy ATM thì có thể nói, ngân hàng len lỏi đến cấp phố, hầu như con phố nào cũng có ít nhất một ngân hàng, to thì chi nhánh, bé thì quỹ tiết kiệm.
Ở đây, vô địch về việc mở điểm giao dịch phải kể đến các ngân hàng nhà nước (Agribank) và các ngân hàng do nhà nước chiếm cổ phần chi phối. Đơn cử, trên địa bàn quận Thanh Xuân, Agribank có gần 20 điểm giao dịch (bao gồm cả Chi nhánh, Phòng Giao dịch), trong đó, có những tuyến đường như Nguyễn Trãi, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quý Đức có từ 2 - 3 phòng giao dịch. Điều này chắc chắn không một ngân hàng thương mại cổ phần nào có được.
Các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước chiếm cổ phần chi phối khác như Vietinbank, BIDV đều có mức độ dày đặc các điểm giao dịch cũng chỉ kém tý chút như chi nhánh Vietinbank Chương Dương có tận 8 Phòng Giao dịch trên địa bàn quận Long Biên và cũng chỉ tập trung chủ yếu ở gần gần các khu vực đường Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, và Ngọc Lâm.
Các ngân hàng thương mại cổ phần khác tuy không “đạt được” độ một phố có thể có 2 phòng giao dịch, nhưng sự xuất hiện cũng dày đặc không kém như Techcombank, MaritimeBank…
Ngoài ra, theo lý thuyết thông thường, mỗi chi nhánh sẽ hoạt động kinh doanh ở một địa bàn cụ thể, và có thể mở các phòng giao dịch ở xung quanh đó phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, chi nhánh Long Biên của một ngân hàng thường đặt trụ sở chi nhánh trên địa bàn quận Long Biên, và mở thêm các phòng giao dịch,quỹ tiết kiệm trên địa bàn quận này để hoạt động.
Tuy nhiên không hẳn vậy, các chi nhánh của các ngân hàng có thể có các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc trên khắp thành phố. Điển hình như Chi nhánh Vietinbank Chương Dương có cả các phòng giao dịch ở tận nhiều quận trong thành phố. Và hiện tượng này không phải là hiếm và tồn tại ở nhiều ngân hàng.
Việc này đương nhiênsẽ không gây ra rủi ro gì cho hoạt động của hệ thống, nhưng các ngân hàng cũng nên xem lại mạng lưới quy hoạch chi nhánh, phòng giao dịch của mình. Đặc biệt, đối với các ngân hàng có quá nhiều phòng giao dịch thì nên xử lý bởi các phòng giao dịch chưa chắc đã đem lại hiệu quả cao khi nó xuất hiện quá dày đặc, thậm chí, có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong chính một hệ thống ngân hàng.
Trần Anh Tuấn
No comments:
Post a Comment