Xét trong sử cũ nước ta, đa phần các triều đại dù ngắn hay trường vinh, đều có liên quan đến việc vương nghiệp, đế nghiệp được phát lên nhờ có mả tổ đúng ngôi đất kết. Điểm qua trong sử nước Nam, dường như nhiều triều vua, chúa đều có mả phát đế vương. Đơn cử như một số trường hợp sau:
Thầy phong thuỷ trả ơn cứu mạng, nhà Trần mộ tổ phát đế
Nhà Trần vốn xuất thân từ nghề chài lưới mà làm nên nghiệp đế, ở ngôi cao thiên hạ trong một thời gian dài.
Thực hư của ngôi mộ tổ phát đế nhà Trần như thế nào? Tìm trong Công dư tiệp ký, ta được tỏ qua phần "Trần triều tổ mộ ký" (tức Truyện mộ tổ nhà Trần). Theo đó, tổ tiên nhà Trần vốn ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, chuyên nghề đánh cá. Lúc bấy giờ, có thầy địa lý Trung Hoa sang nước ta xem đất, tìm được ngôi huyệt phát đế có phát tích tại xã Nhật Cảo và chỗ kết cục ở xã Thái Đường, huyện Hưng Nhân. Chợt lúc ấy, có Nguyễn Cố người xã Tây Vệ đến, hỏi:
– Ông thấy ở chỗ này có huyệt tốt phải không?
Thầy địa lý mới ngửa mặt lên trời cười, bảo:
– Không ngờ ở nơi bình địa mà lại có đất Đế vương. Đáng chê các thầy địa lý đời nay, không thầy nào có nhãn lực!
Cố vui lắm, mới khẩn khoản:
– Nếu quả là đất Đế vương, xin ông cho tôi. Ông muốn được tạ lễ bao nhiêu, tôi cũng xin nộp đủ.
Thấy Nguyễn Cố thành khẩn nài nỉ, thầy địa lý mới bằng lòng, chỉ xin một trăm quan tiền, lại hẹn sau khi Cố lấy được nước, phải chia cho một nửa. Nguyễn Cố lấy làm thuận, đem mộ tổ táng vào chỗ ấy. Thầy địa lý sợ Nguyễn Cố phản trắc, bèn bảo:
– Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn một trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, thấy có sự lạ, thì phải di táng đi chỗ khác ngay.
Nguyễn Cố vừa táng mả tổ vào nơi ấy được ba ngày, nửa đêm bỗng có tiếng sấm to, làm kinh động tới cả vùng quanh đấy. Sáng hôm sau, quanh vùng mả táng có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo. Nguyễn Cố biết được đất quý rồi, lấy làm vui. Vợ hắn mới bảo:
– Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc, nhưng hiện nay làm thế nào mà lo được trăm quan tiền. Vả lại, sau khi chia đôi thiên hạ, thì còn được bao nhiêu?
Cố nghe vợ nói thế, thì trong lòng không muốn tạ lễ cho thầy địa lý nữa. Khi thầy địa lý đến lấy tiền, Cố hẹn mấy ngày nữa sẽ trả. Đến hẹn, thầy lại đến đòi, Nguyễn Cố liền bắt trói lại, rồi đến đêm vứt xuống sông. Nhưng chỗ hắn ném thầy địa lý xuống lại là bãi bồi phù sa, đang lúc thủy triều lên ngập bãi. Lúc sau, thủy triều rút, thầy bị trói nằm trên bãi ấy.
Duyên trời cơ định làm sao, thuyền chài của họ Trần đi qua, nghe thấy tiếng hô cứu, vội tới đem thầy địa lý lên thuyền, hỏi đầu đuôi cớ sự. Cảm cái ơn cứu mạng, thầy địa lý Trung Hoa nói:
– Nhờ ông mà tôi được sống lại. Xin đem ngôi đất quý ấy biếu ông.
Rồi sau lại nói người họ Trần lấy đồng đỏ đúc lưỡi, lấy cây vang nấu nước đỏ ối để dùng. Một hôm mưa to gió lớn, thầy địa lý và người họ Trần đem lưỡi tầm cắm xuống mộ nhà Nguyễn Cố, lấy nước cây vang nhuộm đỏ tưới lên mộ. Nguyễn Cố ra, cho là mộ bị chảy máu, bèn đem táng nơi khác.
Họ Trần liền đem mộ tổ táng vào. Ngôi huyệt mộ ấy phía trước trông ra ngã ba sông Vị Hoàng, phía sau có voi phục, lâu đài và cờ gươm bài trí hai bên. Huyệt ở thế "Thổ tang phúc tàng kim" (đất giấu vàng). Táng xong, thầy phán:
– "Phấn đại yên hoa đối diện sinh", nhà ông hẳn nhờ nhan sắc mà lấy được thiên hạ.
Hai bên giao ước, nhà Trần lấy được nước, sẽ chu cấp cho nhà thầy địa lý đời đời đủ ăn đủ mặc, lại làm giấy giao ước với nhau. Về sau, nhờ ngôi mộ ấy, Trần Cảnh vốn mũi cao mặt rồng, làm Hỏa đầu trong cung Lý Chiêu Hoàng, được nhường ngôi cho.
Đúng từ ngôi mộ phát đế mà nên. Ban đầu, nhà Trần đối đãi với con cháu thầy địa lý đủ lễ. Nhưng đến cuối thời Trần, lễ ngày càng bạc. Con cháu nhà thầy địa lý theo lời dặn của cha ông, sang đưa cho nhà Trần một bản sấm thư. Mở ra, thấy ghi: "Ngôi mộ phát tích ở Thái Đường sắp hết thịnh, phải khởi thông thuỷ đạo mới giữ được lâu dài".
Vua Trần tin lời, bèn đào đường thủy đạo từ sông Vị Hoàng xã Phú Xuân đi vào, quanh đến xã Thái Đường, nào ngờ là kế hiểm của thầy địa lý để lại, đường thuỷ đạo làm đứt long mạch, nhà Trần từ đó mà suy. Đúng là:
Tức Mặc cung hoang; Vị Hoàng sông rộng.
Yên hoa đối diện, ngàn thuở thành vàng.
Lại:
Thử hỏi Tức Mặc, họ Trần mấy vương?
Không khơi sông ấy, ngàn thuở ki thang.
(Theo Đại Nam dư địa chí ước biên)
Một đêm ngủ trọ. Có ngay mả tốt
Dòng dõi chúa Trịnh truyền được 12 đời, tồn tại song song với vua Lê thời Lê Trung hưng (1533 – 1789), dù "phi đế phi bá", nhưng quyền nghiêng thiên hạ. Tiếng là ở dưới một người, trên cả vạn người, mà thực ra quyền bính nắm hết trong tay. Ngôi mộ tổ phát nghiệp cho dòng họ này, trong Trịnh gia chính phả của Nhật nham Trịnh Như Tấu có ghi.
Sự thể là, cụ Hưng tổ Phúc ấm vương Trịnh Liễu của chúa Trịnh Kiểm, vốn người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc (tức huyện Vĩnh Lộc nay, xưa vì kiêng tên huý vua Lê Trang Tông mà đổi làm Vĩnh Phúc), phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa, cha mẹ mất sớm, lấy nghề cày cấy, chăn nuôi làm kế sinh nhai, bản tính nhân từ.
Một hôm, có cụ già tuổi ngót 70 đến xin ngủ trọ qua đêm. Cụ Liễu tiếp đãi rất hậu. Đến khuya, ông già bảo:
– Tôi xem ông có lòng thành thực tiếp đãi. Nay, ở bên Nam núi Hùng Lĩnh có ngôi đất. Để mả ở đấy, bốn đời sau có thể nên Vương nghiệp (núi Hùng Lĩnh nằm phía tây huyện Vĩnh Lộc).
Cụ Liễu nghe lời ông già, đem hài cốt tiền nhân táng vào ngôi đất ấy. Ông già lại đưa đến bên Đông núi Lệ Sơn, xứ Ngõ Thắng, xã Biện Thượng mà bảo:
– Chỗ này có thể lập ngôi dương cư được!
Rồi lại đưa đến xứ Mã Thắm, nói:
– Chỗ này là quý địa, trăm năm sau có thể làm âm phần tiếp phúc được.
Xong việc, hai người trở lại về đất Sóc Sơn cùng nhau tiệc rượu. Đương lúc chè chén vui vẻ, cụ già đi ra ngoài, rồi từ đấy không thấy đâu nữa. Về sau, cụ Trịnh Liễu cứ theo lời cụ già đã chỉ, lấy người con gái họ Hoàng làng Biện Thượng rồi dời sang ở đấy. Đến thời Trịnh Kiểm kể là bốn đời, vương nghiệp được tạo nên từ huyệt đất núi Hùng Lĩnh ông già trả ơn mà thành. Cảm công ơn ấy, nhà chúa Trịnh phong cụ già năm nào làm Tống Thiên Thần Vương để ghi nhớ công lao, đời đời thờ cúng.
Đất hoa sen tám cánh. Nghiệp đế vương bát vị
Ngược thời gian về với triều Lý vẻ vang tồn tại hơn 2 thế kỷ (215 năm, từ 1009 – 1225). Bản "Thiên đô chiếu" (1010) của Lý Thái tổ thực sự là áng văn bất hủ cũng nhắc tới hình thế phong thủy tiêu biểu của đất Thăng Long. Sự chuẩn bị cho một người có gốc ở đất Cổ Pháp (Bắc Ninh), xuất thân bình dân mà lên ngôi Hoàng đế cũng rất cần thần quyền "giúp đỡ".
Truyện kể thân phụ Ngài nghèo khó, đi làm thuê ở chùa Tiêu Sơn rồi phải lòng một tiểu nữ. Nhà chùa bèn đuổi họ đi. Hai vợ chồng dìu dắt nhau đến nơi rừng Báng, ngồi nghỉ dưới gốc cây. Người chồng xuống giếng uống nước, chẳng may sảy chân rồi qua đời. Người vợ bụng mang dạ chửa đi tìm thì thấy giếng đã tự lấp quá nửa… Nàng đành vào chùa Ứng Tâm gần đó xin tá túc.
Theo phong thủy xưa, mộ nhà ai không tự nhiên lấp mà được thiên tạo, ắt là ngôi huyệt mộ quý, không phát đế vương thì cũng thành danh ở đời.
Cũng sách trên của Phan Kế Bính cho biết: "Xét ngôi huyệt chỗ giếng trong rừng Báng ấy, những gò ở chung quanh trông hình như cái hoa sen nở ra tám cánh, cho nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời, bây giờ thuộc về làng Đình Bảng, huyện Đông Ngàn".
Sở dĩ nói nghiệp đế nhà Lý truyền 8 đời, bởi vua thứ chín của nhà Lý vừa là vua nữ, Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng Trần Cảnh, chuyển nghiệp đế họ Lý sang dòng Trần, nên không được tính vào. Lại nói về ngôi mộ cha vua Lý Thái Tổ ở đất Cổ Pháp, khi lên ngôi hoàng đế, đến năm Canh Tuất (1010), nhằm dịp tháng 2 "Vua về châu Cổ Pháp bái yết lăng Thái hậu, cho các bô lão trong làng tiền lụa theo thứ bậc khác nhau (vua bái yết lăng, nhìn quanh cây cối xum xuê các bầy chim muông liệng quanh rồi đậu xuống, trong lòng cảm thấy thương xót, nghẹn ngào không tả xiết. Lòng thương xót cảm động đến cả người chung quanh. Vua liền sai tả hữu tư đến đó đo lấy vài chục dặm cạnh làng để làm nơi đất cấm của Sơn Lăng, các triều vua sau đưa về táng ở xứ ấy, đều gọi là Thọ Lăng)" (Trích Đại Việt sử ký tiền biên).
Theo phong thủy xưa, huyệt mộ không lấp mà tự đầy, tức được "thiên tạo", con cháu không phát vương thì cũng được danh vọng quý. Điều này đã "ứng" với dòng dõi họ Nguyễn (Nguyễn Kim) và trước đó là thân phụ Lý Thái Tổ. Trường hợp này còn gọi "mộ kết", nếu đào lên thấy đất ở đó óng ánh "ngũ sắc" thì phải "hoàn nguyên" ngay. Nếu cứ đào sẽ bị "đứt" long mạch… Hoặc ngôi mộ nào được mối/kiến đùn lên hoặc tự cao lên… cũng có thể được coi là "thiên tạo".
Dần dần tín ngưỡng ấy trở thành phong tục "Sống vì mồ vì mả, ai sống bằng cả bát cơm". Hằng năm đi chạp mộ cũng là cách "tôn tạo" mồ mả cha ông cao ráo sạch sẽ, khang trang một phần là tưởng nhớ đến công lao của tổ tiên, sau là mong tổ tiên phù hộ con cháu giàu có, vương giả.
Đăng Dũng biên tập