Wednesday, September 14, 2016

Các địa điểm du lịch ở Hòa Bình



Cùng Phượt – Hòa Bình là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam cách thủ đô Hà Nội khoảng 60km, giáp ranh với các tỉnh Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình, Sơn La và Thanh Hóa. Đây là vùng đất được coi là cái nôi của nền văn hóa Mường với vô vàn điều kỳ lạ chưa được khám phá. Với lợi thế gần Hà Nội cùng nhiều địa điểm hấp dẫn, Hoà Bình là một trong những vùng đất các bạn có thể dễ dàng khám phá vào mỗi dịp cuối tuần. Cùng Phượt xin giới thiệu với các bạn một số địa điểm du lịch phượt ở Hòa Bình, lần lượt các huyện theo hướng từ Hà Nội lên tới Mai Châu để các bạn có thể sắp xếp và kết hợp trong chuyến đi của mình nhé.
©Bản quyền hình ảnh : Trong bài viết có sử dụng một số hình ảnh được tìm kiếm thông qua công cụ Google Image của tác giả maquan, khoitran, Hoang Mai nhằm minh họa rõ hơn cho nội dung bài viết. Bản quyền những hình ảnh này thuộc về tác giả. Chính sách của Cùng Phượt về bản quyền hình ảnh các bạn có thể theo dõi tại đây.

Động Đá Bạc

Động Đá Bạc thuộc xóm Đá Bạc xã Liên Sơn, Lương Sơn, Hòa Bình. Cách thị trấn Lương Sơn 10km và cách Hòa Bình gần 50km. Từ Hà Nội đi theo hướng lên Hòa Bình, đến bưu điện Lương Sơn thì rẽ trái theo đường liên xã qua cầu Treo -> xóm Cời -> xóm Nàng Hang xã Cư Yên -> xóm nước lạnh -> xóm Gò Mè (xã Liên Sơn) là tới được động.
Đường vào Động Đá Bạc
Động Đá Bạc còn có tên gọi khác là động Tiên, nằm trong lòng núi Pai Dáy (hay còn gọi là núi Hang Beo). Đầu năm 1990, một số ng­ời dân địa ph­ương xóm Đá Bạc đi lấy củi tình cờ đã phát hiện ra di tích động. Cửa động hư­ớng Đông Nam, rộng chừng 1m, cao 2m. Động có chiều dài 65m, chiều rộng từ 4 đến 22m, vòm cao từ 1,5 đến 15m.
Bước vào cửa động, du khách như­ bị choáng ngợp trư­ớc một rừng thạch nhũ rủ xuống từng chùm, từng khối trắng bạc, lơ lửng tựa như­ những chùm hoa đang hé nở, lại như­ chiếc đèn mầu trang trí trong những ngày hội, khi có ánh đèn chiếu vào những khối đá bỗng sáng rực lên phản chiếu lại tạo ra những tia xanh, đỏ, tím, vàng óng ánh. Từ đây du khách đi theo con đường lát gạch ở bên trong động khoảng 6m ngư­ớc nhìn lên thấy một khoảng trống đó là lối lên Cô Tiên.
Động Cô Tiên ở cao hơn nền động chính gần 2m, leo qua 10 bậc thang, du khách sẽ bắt gặp vòm trần có nhiều nhũ đá rủ xuống, kết thành nhiều dải, uốn l­ợn mềm mại như­ bức màn nhung có nhũ buông thẳng, có dải nhũ v­ươn dài xuống, đầu nhọn chĩa ra nhiều phía, treo lơ lửng trên vòm trần thật lạ mắt. Nét kỳ diệu ở đây là d­ưới chân các khối nhũ đá, n­ước nhỏ xuống theo năm tháng tạo thành hai bể nư­ớc thiên tạo xinh xắn. Phía trong bể nư­ớc là hệ thống các ruộng bậc thang như­ đư­ợc thu nhỏ lại. nhỏ nhắn, bờ của các thửa ruộng bậc thang đ­ược đá uốn l­ợn, đẽo gọt chạm khắc kỳ phu tạo nên những bức trạm nổi thiên nhiên sinh động. Vào mùa m­ưa, nư­ớc từ trong các nhũ đá, từ vòm trần nhỏ xuống các thửa ruộng bậc thang đầy ăm ắp n­ớc nh­ư đang chuẩn bị vào vụ mới.
Đi tiếp vào trong động như thu hẹp lại nhỏ nhắn kín đáo và thanh thoát như­ buồng ngủ, những dải nhũ đá thanh mảnh, mềm mại buông xuống như­ tấm ri đô, có dải trông như tấm màn gió. Vào sâu bên trong các khối nhũ đá tạo hình như­ những chiếc bình hoa cổ màu vàng óng ả, bên ngoài đư­ợc chạm khắc tinh tế, kỳ phu. Tại đây tạo hoá như xếp đặt các khối nhũ tròn chịa, sù sì như­ những chùm quả gấc, quả sầu riêng, có khối như­ những tổ ong treo lơ lửng, có chùm xoè ra nh­ư hình quả phật thủ, chùm quả khế. Phía d­ưới nền hang là hàng chục, hàng trăm cột đá bên những đụn thóc, đụn gạo, núi vàng, cây bạc, sừng sững tiếp giáp những đầu voi, đầu tê giác và hình thác nước tuôn trào, đi qua những đập đá còn in lại dấu vết và hình dáng chảy xiết của thác.
Đi sâu vào chút nữa, d­ưới vòm động cao rộng, màu thạch nhũ ánh như­ dát bạc giữa thế giới những hình hài kỳ dị, vừa thật, vừa ảo ta như­ lạc vào chốn thiên cung thần bí mà choáng ngợp. Ngư­ớc nhìn lên trần hang phía tay trái, ta bàng hoàng gặp những hình t­ượng sống động. Nổi bật là hình nàng Tiên ngả lư­ng trên vách đá, phía đối diện với cô Tiên, in nổi lên vách đá là hình con rồng với tư thế đang bay lượn trên sóng nước. Với những nhũ đá, măng đá, cột đá, vân đá…động Đá Bạc đã tạo thành một tác phẩm nghệ thuật tạo hình kỳ lạ của tạo hoá. Với những vẻ đẹp muôn hình, muôn vẻ sẽ tạo nên nguồn cảm hứng để sáng tác cho các nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ và điêu khắc. Cao hơn và rộng hơn là tất cả nhân dân và du khách đến đây chiêm ng­ỡng vẻ đẹp để thêm yêu núi non đồng ruộng của sứ sở này.
Ban đầu cửa động chỉ là một khe nhỏ vừa một ng­ười chui vào, sau khi phát hiện trong lòng động có nhiều nhũ đá đẹp với nhiều dáng hình gây trí tư­ởng tư­ợng kỳ thú, dân địa ph­ương đã mở rộng cửa để vào động.
Để thuận lợi cho khách tham quan đến thư­ởng thức cảnh đẹp trong động, những năm gần đây Ban quản lý đã lắp đặt hệ thống điện thắp sáng trong động, sửa sang, lát gạch lối đi lại trong động.

Suối Ngọc Vua Bà

Suối Ngọc-Vua Bà khu du lịch thuộc xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Đây là một quần thể du lịch sinh thái với diện tích 300ha. Rừng cây ở đây bao gồm mỡ, keo, thông và nhiều cây ăn quả phủ kín những quả đồi. Đến đây du khách có thể thả hồn mình vào thiên nhiên, mắc võng nằm dưới tán cây, bơi lội trong những hồ nước tự nhiên rộng vài trăm héc ta.

Khu du lịch Thác Thăng Thiên

Nằm trên dãy núi Viên Nam, cách Hà Nội hơn 50km về hướng Tây (thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình), khu du lịch Thác Thăng Thiên được bao phủ bởi một cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn màu xanh với rất nhiều loài động thực vật phong phú.
Chảy len lỏi giữa rừng núi là dòng suối Anh với làn nước xanh trong mát rượi. Dọc theo suối có 4 thác nước đẹp, hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều khám phá thú vị. Bầu không khí trong lành của thiên nhiên hoang sơ sẽ khiến những mệt mỏi của bạn dường như tan biến.
Sau những giờ phút khám phá, hòa mình cùng thiên nhiên, các bạn có thể thư giãn, nghỉ ngơi trong những ngôi nhà sàn dân dã mang đậm nét dân tộc trong khu du lịch. Không chỉ có thế, khu du lịch còn có một bể bơi rộng nằm ngay giữa rừng núi xanh bạt ngàn. Các bạn thoả sức bơi lội, tham gia một số trò chơi dưới nước…

Nhà máy Thủy điện Hòa Bình

Thủy điện Hòa Bình khi về đêm (Ảnh : Xóm Nhiếp Ảnh)
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành. Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 240.000 kilowatt. Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh).
Thủy điện Hòa Bình khi xả lũ
Tại sân Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình thang, trên đó có tấm biển thép khắc chìm dòng chữ: “Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày 1-1-2100”. “Kho lưu trữ” lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình thang có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được “chôn” vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.

Bảo tàng không gian văn hóa Mường

Bảo tàng không gian văn hóa MườngĐịa chỉ : Đường Tây Tiến – TP Hòa Bình – Tỉnh Hòa Bình
Điện thoại : 0913 553937
Bắt nguồn từ niềm cảm hứng sâu sắc của một Hoạ sĩ trẻ với khát vọng tái hiện lại toàn bộ không gian sống của người Mường. Sau 10 năm sưu tầm và gần 1 năm xây dựng. Đến ngày 16-12-2007 Bảo tàng “Không gian Văn hoá Mường”  khai trương và chính thức đi vào hoạt động. Bảo tàng nằm trên vạt đồi trong một thung lũng đá vôi nhỏ, hẹp có diện tích 5ha cách trung tâm thành phố Hoà Bình 7km hướng đi Sơn La (nằm trên con đường mới mang tên Đường Tây Tiến). Đây vốn là địa bàn sinh sống của người Mường cổ. Bảo tàng “ Không gian văn hoá Mường” là Bảo tàng tư nhân đầu tiên về văn hóa của dân tộc Mường, một dân tộc có bề dày truyền thống văn hoá trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Công trình được chính chủ nhân của nó bỏ vốn, thiết kế và xây dựng. Bảo tàng được chia làm 2 khu vực chung là:
Khu tái hiện : Gồm 4 khu nhà sàn (nhà Lang, nhà Ậu, nhà Nóc, nhà Nóc trọi) đại diện cho 4 tầng lớp trong xã hội Mường
  • Nhà Lang: là tầng lớp có quyền lực cao nhất, nắm quyền thống trị toàn Mường.
  • Nhà Ậu: là những người giúp việc cho nhà Lang.
  • Nhà Noóc:  là tầng lớp bình dân trong xã hội Mường.
  • Nhà Nóc Trọi: là tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội Mường.
Các ngôi nhà này được sưu tầm và xây dựng từ chính các ngôi nhà cổ thuộc các tầng lớp trong xã hội Mường. Nguyên liệu dùng để làm được lấy từ các loại thảo mộc như: gỗ, tre, nứa, lá…là những loại cây rất gần gũi với người Mường.
Khu trưng bày : Gồm các nhà trưng bày theo chủ đề, trưng bày cố định Trong đó có rất nhiều hiện vật có giá trị như: Cồng, Chiêng, Lư , Ninh bằng đồng…) và nhiều các hiện vật về đời sống sinh hoạt, kinh tế, văn hoá….của người mường như: công cụ đánh bắt cá, công cụ nghề dệt, dụng cụ săn bắn, phòng tang ma, đồ dùng sinh hoạt gia đình, xe nước… Bảo tàng có một thư viện với hơn năm nghìn đầu sách, với nhiều thể loại khác nhau như Văn học, Lịch sử, Khoa học kỹ thuật…Đặc biệt là sách về Văn hóa dân tộc và Văn hóa Mường. Đáp ứng nhu cầu khách tham quan học tập, các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên. Đến nay Bảo tàng “Không gian Văn hóa Mường” đã sưu tầm và lưu giữ được hơn 3000 hiện vật. Có thể nói Bảo tàng “Không gian Văn hoá Mường” là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quý giá về dân tộc Mường ở Hoà Bình nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Nơi đây không chỉ là là nơi để thăm quan, giải trí mà còn là nơi để tìm hiểu, nghiên cứu về giá trị Văn hoá truyền thông của dân tộc Muờng. Bảo tàng được triển khai xây dựng và phát triển theo quan niệm mới phù hợp với xu thế phát triển chung của Bảo tàng hiện nay. Khách thăm quan đến đây không chỉ được nhìn, ngắm, xem mà còn thực sự hoà mình vào cuộc sống hàng ngày của người dân Mường như làm nương rẫy, giã gạo, dệt vải, quay sợi, thưởng thức các món ăn dân tộc, hoà mình vào không khí âm nhạc lễ hội, các trò chơi dân gian của người Mường. Lấy “Không gian Văn hoá Mường” làm trung tâm nên cách bày trí đơn giản, gần gũi không cầu kì, không trưng bày trong tủ kính. Nhưng tất cả các chi tiết dù nhỏ nhất ( hàng rào, đường đi, sắp đặt đồ đạc, bàn thờ thổ công…) đều tái hiện lại những nét đặc trưng cơ bản của xã hội Mường về đời sống xã hội, kinh tế, phong tục tập quán của dân tộc Mường – một xã hội Mường thu nhỏ. Vì vậy từ nhân dân các miền trong cả nước, học sinh, sinh viên, cán bộ nghiên cứu… đến khách nước ngoài đều tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.

Động Tiên Phi

Động Tiên Phi nằm ở trên đỉnh đồi Thúc hay còn gọi là đồi Thung Phi thuộc xóm Gai, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình. Từ trung tâm thành phố Hoà Bình theo đường Cù Chính Lan, rẽ trái qua cầu Hoà Bình, theo đường Thịnh Lang, rẽ trái theo đường đi xóm Gai, thành phố Hoà Bình khoảng 8km là tới di tích. Gọi là Động Tiên Phi là vì khi du khách đến cửa động b­ớc vào trong m­ươi bư­ớc, ng­ước nhìn lên phía trướcmặt, ngay trên vách động có một dải nhũ đá trông tựa giống nh­e một bóng dáng cô tiên trong tư­ thế bay bổng thật mơ mộng tuyệt đẹp. Cũng chính vì vẻ đẹp huyền diệu đó, mà nhân dân địa ph­ương và ý kiến đóng góp của khách thăm quan, động được đổi tên thành Tiên Phi. Động Tiên Phi nằm trên đỉnh đồi Thúc hay còn gọi là đồi Thung Phi, có độ cao 80m so với mặt ruộng, cửa động quay về h­ớng Đông Bắc. Từ bãi đỗ xe, đi theo con đ­ờng mòn dốc lên thoai thoải, du khách leo hết dốc đến đỉnh đồi gặp một bãi t­ơng đối bằng phẳng, hai bên bãi nhân dân ở đây dựng lên các lều quán bằng tre, nứa làm nơi nghỉ chân cho khách thập ph­ơng qua lại thăm động.
Đi tiếp 100m theo dốc lên thoai thoải là đến cửa động, dọc lối lên động là hàng cây ph­ượng vĩ, cây mít, cây bạch đàn và cây tre ngà đan xen nhau xoè tán, phủ lá râm mát hai bên đư­ờng. Phía bên trái cửa động là đền trình, đền đư­ợc tạo lập trong một vòm mái đá, phía trư­ớc cửa đền trình là cây cổ thụ xanh tốt. Bên phải là rừng thông xen kẽ cây bạch đàn và bãi cỏ gianh xanh biếc cả một vạt đồi. Sau khi thắp hư­ơng xong ở đền trình, du khách sẽ bắt gặp một cửa động, lối vào động là một khe đá hẹp, thoai thoải dốc vào phía trong động.
Động được chia làm hai ngăn – Ngăn ngoài: Chiều dài 15m, chiều rộng 8m, vòm trần cao 20m. Lòng động đôi chỗ gồ ghề đá và dốc xuống về phía trong, đất nền màu vàng thẫm, khô ráo, các vách ngăn và vòm trần có nhiều nhũ đá, vân đá, rủ xuống xoè ra lệch góc, lệch cạnh, tạo thành nhiều hình ảnh trông ngộ nghĩnh và rất sinh động. Trên vòm động, gần cửa ra vào có một lối thông lên đỉnh núi làm cho ánh sáng tự nhiên lọt vào mờ mờ, ảo ảo, càng làm ăng thêm vẻ đẹp lấp lánh của các nhũ đá, vân đá mà tọ hoá đã ban cho. Ngăn này cấu trúc nh­ một nhà chờ cao ráo, thoáng mát như một toà lâu đài tĩnh mịch, vừa trang nghiêm vừa huyền bí mờ mờ, ảo ảo. Ngăn động này không phải là một ngăn động đá đơn điệu mà là thế giới sống động những sinh linh ẩn hiện trong biết bao hình hài bằng đá, hình nh­ không một nhũ đá nào lại không có ít ra một hình t­ợng quen thuộc, khiến cho ta liên t­ưởng đến thế giới của sự sống. – Ngăn trong: Chiều dài 53m, chiều rộng 20m, vòm trần cao 10m. Lòng động khá bằng phẳng, nền đất màu vàng thẫm khô ráo, đôi chỗ ẩm ­ướt bởi những giọt nư­ớc từ trên vòm trần nhỏ xuống, đ­ường đi lối lại thông thoáng, dễ dàng, dư­ới ánh sáng của những ngọn đèn điện mờ ảo, du khách sẽ đ­ược đắm mình trong suy tưởng của cái đẹp thiên hình vạn trạng của đá núi của chốn thần tiên, những nhũ đá huyền bí dư­ới bàn tay gọt đẽo, trạm khắc kỳ phu của tạo hoá, không chỉ tạo nên những tác phẩm điêu khắc, những cung điện, những bức chạm nổi thiên nhiên sinh động mà còn tạo ra các khối kiến trúc độc đáo đó là các chuông đá, cồng đá, cái thì như con đại bàng bay, con voi chầu, voi phục cõng trên lư­ng con sư­ tử, con rồng đang trư­ờn mình bay bổng lên không trung. Phía tay phải là những dải nhũ đá từ vòm trần rủ xuống thanh mảnh mềm mại buông xuống nh­ư tấm màn the, gõ vào những dải mỏng, rỗng ấy tuỳ theo cách gõ mà vang lên nh­ư tiếng chiêng, tiếng cồng vậy. Càng vào trong càng gặp nhiềư những nhũ đá kỳ lạ trông như những hình người, hình cây, những chùm hoa, chùm quả. Tất cả tựa như vườn thượng uyển của vua chúa xưa.
Cuối động là một giếng tiên nước trong vắt, mát lạnh giếng hình bán nguyệt rộng 3m, sâu 30cm. Động Tiên Phi là một kiệt tác mà thiên nhiên tạo lập và ban tặng cho Hoà Bình với những kiệt tác của thiên nhiên làm say đắm lòng du khách, khiến cho du khách không muốn chia tay sớm với một sứ sở thần tiên của đất Mường.

Thung Nai

Hồ Hòa Bình (Ảnh – maquan)
Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km.

Bản du lịch Giang Mỗ (xã Bình Thanh)

Cách thành phố Hòa Bình 10km theo trục đường đường Tây Tiến của thành phố Hòa Bình, bản Giang Mỗ gồm hơn 100 nóc nhà sàn nằm bình yên trong một thung lũng nhỏ dưới chân núi Mỗ, thuộc xã Bình Thanh, huyện Cao Phong. Với bản sắc văn hóa bản địa vật thể và phi vật thể đậm nét truyền thống đặc trưng của người dân tộc Mường vẫn được lưu giữ, bảo tồn nguyên vẹn, từ lâu nơi đây đã được du khách trong và ngoài nước biết đến là một điểm nhấn của du lịch văn hoá cộng đồng nổi bật nơi đất Mường Hòa Bình. Sự đặc biệt luôn hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách tới bản Mỗ chính bởi đây là một bản Mường, những đặc trưng truyền thống trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, phong tục, văn hóa của người dân nơi đây vẫn được gìn giữ, bảo tồn và phát huy; đặc biệt là những nếp nhà sàn Mường cổ được xây dựng theo kiểu con rùa (nhà rùa) vẫn giữ được vẹn nguyên những nét mộc mạc đơn sơ – một kiểu kiến trúc cổ truyền rất khác biệt so với kiểu nhà của các dân tộc khác như Thái, Tày, Dao, Mông… Nhà sàn nơi đây mang tính gắn kết cộng đồng cao, gắn liền với phong tục, tập quán, đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân bản Mường, được dựng quây quần bên nhau, ở vị trí dựa lưng vào thế đất cao để đón nhận khí trời cũng như thuận tiện cho việc trồng trọt, làm nương rẫy và chăn nuôi. Là điểm nằm trên tuyến du lịch từ thành phố Hòa Bình đi cảng du lịch Thung Nai, cảng Bình Thanh nên khách du lịch có thể tiếp cận bản Giang Mỗ rất thuận tiện và dễ dàng bằng xe ô tô, xe máy trong thời gian ngắn. Đến đây du khách sẽ được đón tiếp nồng hậu bởi người dân địa phương chất phác, nhiệt tình, thân thiện và mến khách; dạo bước trên con đường uốn lượn dài hơn 1km từ ngoài đường chính vào đến cuối bản, dừng chân tại bất kỳ ngôi nhà sàn nào mà mình thấy thích để tìm hiểu, cảm nhận lối kiến trúc nhà sàn Mường cổ, cách ứng xử mang đậm nét văn hóa bản Mường qua những câu chuyện với chủ nhà, qua cách bài trí, sinh hoạt thường ngày của người dân trong bản và cảm nhận nếp sống mộc mạc, thuần hậu của con người nơi đây. Tại bản Giang Mỗ, giữa không gian bình lặng, du khách được tự do thả mình chiêm ngưỡng cảnh quan, vẻ đẹp hoang sơ nơi núi rừng; tham gia trực tiếp vào các hoạt động gắn liền với cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân bản địa như: học chăn nuôi gia súc, gia cầm; làm nương rẫy, trồng rừng; làm các sản phẩm thủ công truyền thống, đồ lưu niệm từ mây, tre; nghiên cứu, tìm hiểu văn hoá văn nghệ dân gian Mường qua các tiết mục ca múa nhạc Mường cổ trong âm thanh của tiếng chiêng, trống, sáo ôi,… do chính người dân bản biểu diễn; tìm hiểu, học cách chế biến và thưởng thức những món ăn đặc trưng do chính tay chủ nhà chế biến theo cách thức và gia vị riêng của người Mường bằng nguyên liệu nuôi trồng được: xôi nếp nương, xôi cẩm, thịt lợn cỗ lá, gà đồi, cá suối đồ, ngâm rượu chuối Bên cạnh nếp nhà sàn truyền thống, du khách sẽ được các thiếu nữ Mường giới thiệu về nghề thủ công truyền thống với những dụng cụ lao động sản xuất cổ được làm từ nguyên liệu tự nhiên gỗ, tre hoặc nứa như: khung dệt vải, cung, nỏ, hệ thống dẫn nước, dụng cụ làm ruộng, nương rẫy…; giới thiệu về trang phục dân tộc, những sản phẩm dệt thổ cẩm truyền thống: túi xách, khăn; các loại nhạc cụ; vật dụng chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt cá…
Ngoài các hoạt động tại bản Giang Mỗ, du khách có thể tới thăm quan các điểm du lịch lân cận như: tượng đài chiến công diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan – gắn liền với chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch Hòa Bình lịch sử (1951 – 1952); thăm quan Bảo tàng không gian Văn hóa Mường; thăm điểm nước nóng gần bản đang được xem xét khảo sát đưa vào khai thác. Đặc biệt, với vị trí nằm gần khu du lịch Hồ Hòa Bình, gần khu vực cảng du lịch Thung Nai nên du khách rất thuận tiện khi chỉ mất 20 phút đi xe tới cảng, lên thuyền đi thăm quan các điểm du lịch nổi tiếng trên lòng Hồ như: đền và động Thác Bờ, khu nghỉ Đảo Dừa, Cối Xay Gió,…

Khu bảo tồn thiên nhiên Pu Canh

Khu bảo tồn thiên nhiên thuộc địa phận 4 xã Tân Pheo – Trung Thành – Đoàn Kết – Đồng Chum, huyện Đà Bắc. Đây là một khu rừng giàu và đa dạng về thảm thực vật, động vật. Rừng Pu Canh không giống như những khu bảo tồn thiên nhiên khác. Ở đây vẫn còn nguyên sự hoang sơ, huyền bí và thâm u của rừng già như nó vốn có.

Đền Bà chúa Thác Bờ

Theo tương truyền, Đền Bờ (xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình) thờ bà chúa Thác Bờ là Đinh Thị Vân người dân tộc Mường và một bà người dân tộc Dao bà người Dao ở Vầy Nưa lo liệu quân lương, thuyền mảng (không rõ tên). Hai bà đã có công giúp vua Lê Lợi về quân lương, thuyền mảng vượt thác Bờ tiến quân lên Mường Lễ, Sơn La dẹp loạn đảng Đèo Cát Hãn. Sau khi mất, 2 bà thường hiển linh giúp dân vượt thác an toàn, phù hộ cho trăm dân trong vùng mưa thuận, gió hoà nên nhân dân đã phong 2 bà làm thánh và lập đền thờ phụng.
Dốc lên đền Bà chúa Thác Bờ
Lâu nay, người dân trong vùng tôn vinh hai bà là “Chúa Thác Bờ”, hàng năm vẫn mở hội đền vào ngày 7 tháng Giêng âm lịch. Tuy nhỏ nhưng vẫn cho cảm giác uy nghi bởi hòa vào tổng thể cảnh quan núi non sông nước hùng vĩ. Ðặc biệt, đền có rất nhiều tượng, với 38 pho lớn nhỏ. Trong đó có hai pho tượng đồng là tượng thờ chính…

Khu du lịch suối khoáng Kim Bôi

Khu du lịch Suối khoáng Kim Bôi độc đáo hấp dẫn bởi nguồn nước khoáng từ ngàn xưa trong vắt, không mùi, vô khuẩn, khi vừa lộ thiên nhiệt độ 34 -> 36oC, thành phần chính là Bicacbonat Sunphat Canxi – Magie, thuộc loại nước khoáng giải khát chữa bệnh có lợi cho sức khoẻ con người.
Theo các nhà khoa học, nước khoáng Kim Bôi được xuất lộ ra từ vỉa đá vôi có tuổi địa chất khoảng 250 triệu năm, khi lộ thiên nước có nhiệt độ 34-36 độ C, được đánh giá là suối khoáng có thành phần hóa học ổn định nhất. Qua kiểm nghiệm, nguồn nước khoáng Kim Bôi là điều kiện lý tưởng để phục hồi sức khỏe, giúp chữa các bệnh viêm khớp, đường ruột, dạ dày, huyết áp… Nước suối Kim Bôi đã được đóng chai làm nước giải khát, nó cùng loại với nước khoáng Thạch Bích ở Quảng Ngãi, Kum-dua ở Nga và Paven Banis ở Bulgaria.
Đến đây, du khách có thể nghỉ ngơi và tận hưởng nguồn suối nóng tuyệt vời tại khu du lịch suối khoáng Kim Bôi, khách sạn Công đoàn, Vresort, hoặc các khu nhà nghỉ. Nguồn khoáng nóng phun lên từ độ sâu 175,5 m và được bơm dẫn trực tiếp vào các bể tắm phục vụ du khách. Nhiều người ưa dân dã, lựa chọn những khu nhà nghỉ để gần gũi với thiên nhiên, hơn nữa có thể vừa đắm mình thư giãn, lại vừa có thể nghe tiếng nước phun lên ào ào vô tận từ dưới lòng đất.

Cửu thác Tú Sơn

Cửu thác Tú Sơn (Ảnh – khoitran)
Cửu thác Tú Sơn được ví như danh thắng “đệ nhất’ xứ Mường với núi non hùng vĩ, suối thác thơ mộng, cùng khí hậu mát mẻ trong lành khiến ai đến đây cũng đều ngỡ như đang lạc bước ở Đà Lạt, hay đắm mình trong sương sớm Sapa.
(Ảnh – khoitran)
Cách thành phố Hoà Bình trên 20km, cách thủ đô Hà Nội 60km, khu du lịch sinh thái Cửu Thác Tú Sơn nằm trên địa phận xóm Củ, xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi (tỉnh Hoà Bình), cạnh đường quốc lộ 12B, gần khu suối khoáng nóng Kim Bôi. Đường lên với Cửu thác, du khách có thể cảm nhận được sự mộc mạc, hoang sơ từ cảnh vật đến cả nếp sống của đồng bào dân tộc nơi đây. Người dân sống quanh khu cửu thác chủ yếu là người Mường.
  • Thác Tiên Tắm hùng vĩ và thơ mộng, với nước trong vắt như gương soi.
  • Ở thượng ngàn cửu thác Tú Sơn, cao 1.300m so với mặt nước biển, là Thác hồ Âu Cơ huyền bí, nơi còn lưu dấu tích một “quả trứng Âu Cơ” khổng lồ hóa đá nằm giữa suối.
  • Thác Quan Lang trải chiếu bồng bềnh, êm ru như tình yêu quan lang lén lút hò hẹn với người tình bên dòng suối mà người xưa đã lưu lại thành truyền thuyết.
  • Thác Hồ Út Lót gắn liền với câu chuyện tình yêu trắc trở của nàng Út Lót vừa thông minh, vừa xinh đẹp với chàng Hồ Liêu không lấy được nhau hóa thành đôi bướm trắng rập rờn bên suối.
  • Choáng ngợp nhất là Thác Bạc, cao hơn 20m, tựa như mái tóc của sơn nữ xứ Mường, được trang điểm cầu kỳ bằng thứ màu bạc lấp lánh. Dòng thác tấu lên những tiếng ầm ầm, ào ào nghe như bản hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Chốc chốc hơi nước và ánh nắng lại hòa quyện vào nhau tạo thành những chiếc cầu vồng kỳ ảo.
  • Động Long Cung là một dòng suối cổ xưa chảy từ đầm hồ ba nhánh. Do trên cao đất đá tuôn xuống lấp tắc, làm nước đổi dòng, suối này trở thành hang động huyền ảo.
  • Đi qua cây cầu treo rung rinh trước gió và gần 200 bậc thang đá là đặt chân tới khu vườn Thượng Uyển ở độ cao 1.000m so với mực nước biển. Khí hậu mát mẻ, dõi mắt về bốn phía là những cánh rừng già nguyên sinh, xanh thẳm mờ sương. Ven suối là những nhà sàn nhỏ xinh nằm im lìm bên những tảng đá như đàn voi đá tranh nhau tắm ngụp dưới dòng nước trong mát.
  • Thác Thiên Ngọc Thạch: từ chân thác nhìn lên cao sẽ thấy một hòn đá tròn khổng lồ, màu xanh ngọc, như đang treo lơ lửng giữa trời. Dưới chân thác là không gian mênh mông, huyền ảo, tráng lệ của động Thuỷ Cung, với muôn vàn hoa lá khoe sắc rực rỡ.
  • Thác hồ Trượng Phu cao 100m – dòng thác như từ trên trời buông xuống hồ Tiên Sa rộng 300m2, phía trên hồ Tiên Sa là giếng Ngọc.

Mộ cổ Đống Thếch

Đống Thếch là tên gọi khu mộ Mường cổ thuộc xóm Chiềng Động, xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình. “Đống” theo quan niệm của người Mường dùng để chỉ những nơi mồ mả, nơi chôn cất người chết. Còn “Thếch” là địa danh chỉ vùng đất, vì thế mà khu mộ mang tên địa danh là Đống Thếch. Khu mộ Đống Thếch nằm ở phía Tây Bắc thung lũng Mường Động, xã Vĩnh Đồng. Trên đường 12B, cách huyện lỵ huyện Kim Bôi 6km, cách trung tâm thành phố Hoà Bình 24km về phía Đông Nam, từ ngoài đường nhìn vào ta sẽ thấy một thung lũng nhỏ, cao ráo, bằng phẳng, đi sâu vào bên trong ta thấy nhấp nhô hàng trăm hòn mồ cao thấp đứng cùng thời gian mưa nắng, địa thế khu đất khá đẹp, bằng phẳng giao thông đi lại thuận tiện, vây quanh ba mặt khu mộ cổ Đống Thếch là những quả đồi thấp tạo nên một bồn địa nhỏ trong một thung lũng lớn. Khu đất có địa thế, hình dáng miệng rồng, một thế đất theo quan niệm thuật phong thuỷ ngày xưa. Cho nên từ lâu dòng họ quan lang Mường Động đã độc chiếm làm nghĩa địa để làm nơi yên nghỉ cuối cùng của dòng họ mình. Với diện tích rộng vài vạn mét vuông, trải qua nhiều đời khu mộ cổ Đống Thếch đã ẩn chứa hàng trăm ngôi mộ của nhiều thế hệ dòng họ Đinh. Trong đó có nhiều ngôi mộ, xung quanh quanh được chôn nhiều hòn mồ cao lớn như cắm dấu ấn biểu hiện quyền lực của dòng họ lang Mường Động. Đống Thếch trở thành “Thánh địa” riêng của nhà lang, bị cây rừng phủ lên rậm rạp càng trở nên bí hiểm trước con mắt của người dân Mường Động từ đời này sang đời khác, mộ có niên đại sớm nhất là năm 1651. Đặc biệt trong khu mộ cổ có ngôi mộ của tướng quân Chiêu Đống hầu Đinh Công Kỷ là người có công giúp vua Lê Trung Hương chống giặc và xây dựng chiều chính.

Lũng Vân

Lũng Vân trong mây (Ảnh – Hoang Mai)
Nằm cách trung tâm thành phố Hòa Bình khoảng 40km, Lũng Vân (huyện Tân Lạc) là một trong bốn cái nôi văn hóa lớn và cổ xưa nhất ở xứ Mường Hòa Bình. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vỹ cùng nét văn hóa đặc trưng, Lũng Vân đang là điểm đến của không ít người đam mê du lịch phượt. Được coi là “nóc nhà xứ Mường Bi”, bởi đó là vùng đất sinh sống cao nhất của người dân tộc Mường, đồng thời cũng là nơi chứa đựng rất nhiều câu chuyện đã đi vào huyền thoại.
Lũng Vân gồm những ngọn núi cao hùng vĩ điệp trùng thấp thoáng trong mây, với những con đường nhỏ nhưng dốc cao và vô cùng hiểm trở…Chính vì những điều kiện thiên nhiên và địa hình đó, nơi đây đã từng là điểm đến của một số nhóm phượt và off-road muốn trốn tránh sự ồn ào thành thị để tìm cho mình những giây phút trải nghiệm trong một không gian thiên nhiên tĩnh lặng.
Nằm ở độ cao 1200m so với mặt nước biển, nơi đây quanh năm mây mù bao phủ nên còn có tên gọi Thung Mây. Thung lũng được bao bọc bởi núi Trâu, núi Pó, núi Tiên, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình vào khoảng 20 – 23,3ºC. Cái tên Lũng Vân hẳn còn xa lạ với nhiều người. Một phần bởi nó nằm sâu bên trục đường Hòa Bình – Mộc Châu, đường tới Lũng Vân lại vô cùng hiểm trở với những đèo dốc liên tiếp dài 13km. Bởi thế, cũng dễ hiểu khi ít người biết về Lũng Vân.
Theo truyền thuyết được ghi lại trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường thì đã lâu lắm rồi, chẳng ai còn nhớ được, giữa chốn núi non hiểm trở đã xảy ra một cơn đại Hồng thuỷ. Nó bất thần đổ ập xuống trong một đêm mưa gió bão bùng. Dòng nước cuộn xiết đã cuốn trôi hết nhà cửa, trâu bò, con người và cả núi rừng. Giữa cuộc tan tác ấy, có đôi vợ chồng bấu víu được trên chiếc bè. Cứ thế, chiếc bè chìm nổi trong sóng dữ hết ngày này sang này khác cho đến khi vướng vào một cây cổ thụ khổng lồ có tên là Bi, rễ cây ăn xuyên qua “chín sông, mười núi” bền chắc đến nỗi cơn đại Hồng thuỷ kia không thể làm bật gốc. Khi cơn Hồng thuỷ rút đi, đôi vợ chồng nọ cũng không biết quê xứ của mình ở đâu để trở về. Bởi sau cơn Hồng thuỷ, mặt đất như trở lại thời hỗn mang, mọi thứ đều tan tác hoặc bị cuốn trôi. Không biết đi đâu, họ ở lại dựng nhà dưới gốc cây Bi, sinh con đẻ cái, phát rừng làm nương, cày cuốc sườn đồi thành ruộng bậc thang, làm Cọn lấy nước, thuần phục muông thú thành vật nuôi, lập bản, lập mường. Nhớ ơn cây thần cứu mạng, họ đã lấy tên cây đặt tên cho mường. Đó là vùng Mường Bi ngày nay – một mường lớn và trù phú nhất trong 4 mường Bi – Vang – Thàng – Động của xứ Mường Hoà Bình. Cái tên Lũng Vân, có lẽ được bắt nguồn từ điểm đặc trưng của một thung lũng với bốn bề là núi cao dựng, nối nhau trùng điệp quanh năm chờn vờn mây phủ. Xưa, Lũng Vân còn có tên là Mường Chậm. Theo những người dân thì chữ Chậm ở đây không phải là sự nhanh, chậm theo nghĩa thông thường. Nhưng trong tiếng Mường nó cũng chẳng thể hiện ý nghĩa gì. Nguồn gốc xa xưa của địa danh này cũng chẳng mấy ai rõ. Chỉ biết rằng truyền thuyết tạo nên xứ Mường trong mây này là một câu chuyện buồn của một cuộc trốn chạy quan Lang của một gia đình nghèo còn được ghi trong trí nhớ của một lớp người xưa cũ như một câu truyện truyền thuyết đời nối đời.
Tương truyền thì trong xứ Mường Hoà Bình, Mường Chậm là xứ mường trẻ nhất, nằm ở địa thế sâu, xa nhất. Nó là kết quả cuộc trốn chạy của một nhà dân thường. Vì phạm tội với nhà Lang nên phải bồng bế nhau bỏ mường đi tìm đất mới. Thuở ấy, nhà lang xứ Mường Bống ở đất Lạc Sơn cho đắp một con đập dẫn nước về các thửa ruộng bậc thang lẩn khuất giữa các khe nách núi. Từ khi có con đập, lũ trẻ thường rủ nhau tắm và chui luồn như những con rái cá trong cái cống dẫn nước bắc ngang qua chân núi. Một nhà dân thuộc họ Bùi vô tình đan cái ngõ hầu (đó) chặn một đầu bên kia miệng cống. Mải nô đùa, luồn lách 9 đứa trẻ bị giắt vào ngõ hầu và chết trong đó. Nhà lang phạt vạ, bắt nhà họ Bùi đan đủ 9 cái ngõ hầu, mỗi năm nộp lúa, ngô… quy ra vàng bạc đầy 9 cái ngõ hầu để nộp vạ cho mường… Không chịu được sự bất công, sau một mùa lúa mới, trong một đêm tối trời, nhà họ Bùi đã gùi chín gùi lúa mới bồng bế nhau bỏ mường, trốn khỏi nhà lang. Họ đi miết cho tới khi lạc vào một vùng hoang vu cây cối rậm rạp. Nghe tiếng Cuốc kêu, biết là vùng này có nước, họ mới dừng chân ở lại…. Mường Chậm được hình thành như thế. Con Cuốc chỉ đường cho người trốn vạ nhà lang được nhà họ Bùi nhớ ơn, không bao giờ ăn thịt. Cuộc sống bình yên trên vùng đất mới của dòng họ Bùi bắt đầu như vậy. Một năm sau, người vợ của nhà họ Bùi đi xúc cá, được một quả trứng. Bỏ đi đâu bà cũng bắt đúng quả trứng ấy. Lấy làm lạ, bà mang về cho gà ấp, quả trứng nở ra một con rắn. Con rắn hiền lành chẳng bao giờ làm hại ai cả.. Lớn lên, con rắn bò về cái lằn nước nơi trước kia người vợ nhà họ Bùi vớt được quả trứng. Trước khi đi, rắn bảo: “Con trả ơn nuôi dưỡng của bố mẹ bằng cách mở rộng đất cho bố cày”. Một đêm mưa gió, sấm chớp đùng đùng, nước ngập cả mường, kéo đổ cây, cuốn cả nhà… Đúng lúc ấy, con rắn hiện lên bảo với ông lão họ Bùi: “con sẽ đi dập dòng nước dữ cứu mường. Lúc con đi, bố phải nhắm mắt đọc câu thần chú “con tôi làm được” và không được mở mắt nhìn. Nếu không con sẽ chết ngay!”. Nói rồi, con rắn lao vào dòng nước dữ trong đêm giông gió. Người cha nghe theo, nhắm mắt đọc câu thần chú. Nhưng rồi cuối cùng vì sự tò mò, ông mở mắt ra và nhìn thấy một con giao long khổng lồ đang hút từng đụn nước vào bụng, vừa hút, vừa lấy thân mình khoét núi cho nước thoát đi…
Với những tiềm năng sẵn có, Lũng Vân hiện đang là một điểm thu hút khách du lịch. Đến Lũng Vân đẹp nhất vào thời điểm sau tết đến tháng Tư hàng năm, đó là lúc có nhiều mây bao phủ nhất. Mây bắt đầu từ chiều tối và đến sáng sớm hôm sau tan dần, đến giữa trưa thì trời quang hẳn. Đến Lũng Vân, du khách có thể tham quan, nghỉ đêm tại nhà sàn của người Mường, cùng làm những công việc hàng ngày với người dân hay tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… Chợ Lũng Vân nằm ngay trung tâm xã, họp mỗi tuần một lần vào ngày thứ 3, du khách có thể đến đây để tìm hiểu những màu sắc văn hóa của dân tộc Mường.

Động Thác Bờ

Động Thác Bờ nằm trong dãy núi Chủa bên bờ hồ sông Đà thuộc xóm Bưng, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Từ trung tâm thành phố Hoà Bình, theo đư­ờng đến bến cảng đập thuỷ điện khoảng 7km, sau đó thuyền sẽ đưa du khách vãn cảnh ngược dòng sông Đà chừng 17km ta sẽ tới chân núi Chủa nằm ngay cạnh mép nước. Vào mùa nước cạn thì du khách sẽ phải leo bộ gần 100 bậc từ chân núi đến cửa động. Nhưng nếu vào mùa nước đầy thì du khách có thể dập dềnh từ thuyền sang nhà nổi, đi qua cầu phao được kết bằng những thân cây bương chạy dài khoảng 50 m cho tới bậc đá lên động. Động Thác Bờ nằm ở sườn núi phía Bắc của dẫy núi Chủa nhìn ra mặt sông. cửa động cao tới 25m, rộng 20m, thuộc xã Ngòi Hoa. Dãy núi đá vôi này kéo dài khoảng 8km. Trải dài nằm sát và bao bọc một phần lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình.
Từ xã Ngòi Hoa nhìn lại, dãy núi Chủa trông uy nghi, hùng vĩ, sừng sững giữa trời, dòng nước sông Đà vào mùa khô trong xanh, dịu dàng uốn lượn ven chân núi. Động có chiều sâu tới hơn 100m. Lòng động gập ghềnh, nhấp nhô chỗ rộng, chỗ hẹp, nơi rộng nhất tới 20m. Động được chia làm 3 cung phòng lớn. Cung phòng thứ nhất rộng rãi thoáng đãng, vòm trần cao. Cung này được bố trí như một phòng chờ hay một phòng khách lớn. Các khối nhũ 2 bên vách không nhiều nhưng rất đặc sắc. Chúng không phân bố riêng rẽ mà tạo thành từng cụm lớn khiến ta liên tưởng tới những bức tranh của các trường phái ấn tượng hay trìu tượng. Đặc biệt trên vách phía Tây, với dấu ấn của thời gian trôi qua đã để lại cho chúng ta một khối nhũ lớn mang hình tượng cá chép đang hoá rồng.
Từ ngoài đi vào bên trong ta phải qua một cây cầu nhỏ dài 30m bắc qua hồ nước. Vào mùa khô hồ không có nước, chỉ khi nước sông đà dâng cao tràn qua cửa động thì hồ lại ăm ắp nước. Nước không sâu, nhưng trong vắt, để du khách có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá đang bơi lội (đó là cá từ sông theo nước đầy vào hang). Dọc đường đi, du khách sẽ bắt gặp một khối tượng rất kỳ lạ mọc từ nền động và cao tới gần 2m. Từ xa nhìn lại ta ngỡ như đây là một hướng dẫn viên của động đang chỉ đường cho du khách. Băng qua hồ nước, du khách sẽ được sứng sờ khi chiêm ngưỡng các tiên cảnh bên trong. Có thể nói đây là nơi đặc sắc nhất, là trung tâm, là linh hồn của động Thác Bờ. Bao sự ly kỳ, diễm lệ của động đều ẩn chứa bên trong, bước chân vào tới đây, cảm giác đầu tiên của du khách sẽ là sững sờ và choáng ngợp: Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù thật kỳ lạ hấp dẫn du khách.
Giữa động có một cột đá khá lớn, xung quanh là tầng tầng lớp lớp các cột đá nhỏ mọc lên như rừng bụt mọc…Ngẩng đầu nhìn lên ta bắt gặp một vòm trần lô nhô căng chật hàng trăm, hàng ngàn khối nhũ đá rủ xuống, chỗ thì trắng xoá, lóng lánh bầu thon như những viên ngọc, chỗ thì vàng óng toả ra như một rừng hoa, chỗ thì rực rỡ như một phòng đèn hoa trang trí, chỗ thì sắc cạnh như lớp lớp san hô hay như những bụi xương rồng. Các khối nhũ đá được chạm chổ tinh tế những hình thù kỳ lạ bí ẩn, đường nét uyển chuyển, mềm mại… Hữu cung nằm cao hơn chính cung tới hơn 10m, đường lên cheo leo, ngoằn nghèo hơi khó đi, khiến cho du khách có cái háo hức như đang được tham dự vào cuộc tìm kiếm, khám phá những điều bí ẩn. Là một cung phòng khá lớn có chiều dài tới 30m, chiều rộng tới 15m, vòm trần cao, không khí thoáng đãng mát lành, được xem là nơi thờ phật: Các cột đá mọc lên từ những nền hang như những tượng phật. Bàn thờ phật được bố trí khá ngăn nắp, các tượng phật toạ lạc từ thấp đến cao. Hệ thống hang động là bảo tàng sống chứa những bằng chứng của quá khứ về điều kiện khí hậu, địa chất, động thực vật và thậm chí cả dấu vết, các hoạt động của con người. Qua tìm hiểu và nghiên cứu thực tế, về mặt địa chất, địa mạo động Thác Bờ thuộc loại hình hang động karst có giá trị về mặt địa chất địa mạo và du lịch
Hàng năm, vào mùa xuân là mùa trẩy hội của tuyến du lịch lòng hồ sông Đà Ba điểm tham quan chính tại đây là 2 đền Bà chúa Thác Bờ và động Thác Bờ, sau khi dâng hương tại 2 đền Bà chúa Thác, cầu mong mọi điều tốt đẹp lành trong năm mới, du khách sẽ được thư giãn với những tiên cảnh của động Thác Bờ.

Động Hoa Tiên

Di tích động Hoa Tiên di tích toạ lạc trong lòng dãy núi đá vôi, núi Bà thuộc xóm Ngòi, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Cách nơi di tích toạ lạc khoảng 1km về phía Đông, có một hồ nước rộng, trong xanh dân trong vùng gọi là hồ tiên tắm.Từ hai địa danh đó nhân dân nơi đây đã chọn hai mỹ tự đẹp nhất để đặt tên cho động là động Hoa Tiên.
Muốn thăm quan động du khách có thể đến với di tích bằng 2 tuyến.
  1. Từ trung tâm thành phố Hoà Bình, theo đường đến bến cảng đập thuỷ điện khoảng 7km…Từ đây du khách theo thuyền ngược lòng hồ sông Đà 27km sẽ đến địa phận xóm Ngòi, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, xuống thuyền đi bộ khoảng 100m nữa là tới động Hoa Tiên.
  2. Từ trung tâm thành phố Hoà Bình theo quốc lộ 6A tới ngã ba chân dốc Cun khoảng 5km, từ đây theo đường Tây Tiến qua xã Bình Thanh tới xã Thung Nai huyện Cao Phong khoảng 18km. Từ đây du khách có thể đi theo đường vào xã Ngòi Hoa khoảng 11,7km. Từ đây tiếp tục đi bộ ra bến đò xóm Nẻ, dùng thuyền đi khoảng 9km, đến cửa Ngòi du khách có thể theo đường bộ khoảng 3,7km là tới di tích.
Động Hoa Tiên gồm 2 cửa cách nhau 18m: cửa phía Đông nam và cửa phía Nam. Cửa Đông nam có chiều cao 5m; rộng bình 6m. Cửa hư¬ớng Nam cao 6m; rộng 9m. Cửa động cao hơn nền động khoảng 8-10m, muốn vào động du khách phải đi qua cầu thang bằng sắt, bắc ở hai cửa vào.
Ngay khi đặt chân vào trong động du khách hết sức ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tuyệt vời của đá với vô vàn khối nhũ đá, măng đá, cột đá đủ các hình thù kỳ thú, hấp dẫn du khách qua ánh sáng đèn những nhũ đá măng đá, cột đá phản chiếu ánh sáng lấp lánh như đèn màu sân khấu.
Động chính: Với chiều dài 61m; rộng 27m, từ cửa đi vào rẽ trái đi chừng 50m, động được chia thành 2 ngách nhỏ khi vào thăm quan động du khách bắt gặp vô vàn các nhũ đá nơi đây. Các khối có các hình thù vô cùng lý thú. Hình thì như vân vũ, hình như ông Bụt, ông Tiên toạ lạc trên các đám mây hồng ngũ sắc rực rỡ muôn màu. Trên vòm trần ta bắt gặp nhũ đá trông mềm mại rủ từ trên xuống tựa như¬ một chiếc chân váy mầu vàng rực rỡ như vừa được giặt xong vẫn còn vương trên đó những giọt nước li ti đọng lại long lanh.
Ngách động phía Bắc: Có chiều dài 60m; rộng 12m được ngăn cách với động chính bằng một dãy cột đá, măng đá cao xếp thành từng hàng lớn. Qua bức tường tự nhiên này du khách tiến vào lòng động. Nền động gồ ghề bởi các ruộng bậc thang nối tiếp nhau có chiều hơi dốc lên. Động này dài 60m, phía ngoài rất rộng có chỗ tới trên 20m, càng vào trong càng thu hẹp lại. Trần cao trung bình 15m.
Ngay tại đầu ngách này du khách bắt gặp một hồ nước nông, đây là điểm đầu cho cả một dãy dài các hồ nước nhỏ kế tiếp nhau tạo thành các ruộng bậc thang. Nước trong và mát lạnh dưới ánh sáng của đèn động hiện lên lung linh một cách lạ kỳ, du khách choáng ngợp bởi vẻ đẹp kỳ vĩ nơi đây.
Càng vào trong lòng động càng thu nhỏ lại, không gian nơi đây yên tĩnh để không khỏi giật mình trước một vài chú rơi rơi vỗ cánh bay vút vào bóng đêm, ở đây với vô vàn các khối nhũ đá, cột đá, măng đá nhiều hình thù kỳ bí, với ngai vàng lọng tía quả là một kiệt tác của thiên nhiên.
Ngách phía Tây nam: Ngách động này ăn sâu xuống và hướng ra phía ngoài núi, sau đó lượn hình vòng cung men theo triền núi đá vôi với độ sâu khoảng 48m, rộng trung bình 10 -12m, trần cao thấp không đều nhau có chỗ cao đến 30m, có chỗ thấp hẳn xuống tạo thành các cung bậc. Nền động gồ ghề và ẩm ướt, nền được tạo thành bởi nhiều tảng đá lớn xếp lại với nhau. Dưới ánh đèn vô vàn các nhũ đá, cột đá hiện ra với nhiều hình thù như được bàn tay chạm nhân tạo của những nghệ nhân tài ba tạo thành. Từ trần cao rủ xuống các dòng thác đá uốn lượn mềm mại như những dải lụa mềm, khẽ đung đưa trong gió, những hình ảnh đó hoà vào nhau tạo thành các khối kiến trúc hình thành nên các cột lớn từ dưới vút lên cao xoè ra như chống lấy cả khối trần đồ sộ. Có khối cao, khối thấp, khối đến mười người ôm không xuể, có khối chỉ như chiếc cột nhà sàn, có khối cao đến 20m, có khối chỉ cao 3- 4m. Tạo ra trong vách động này một bức tranh hoàn chỉnh mà trong đó hội tụ đầy đủ cả kiến trúc nghệ thuật tạo hình và hội hoạ.

Chùa Tiên

Chùa Tiên – Mẫu Đầm Đa (hay còn được người dân gọi là Chùa Tiên – Đầm Đa) là một ngôi chùa thuộc địa phận xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Chùa được Bộ văn hóa – Thông tin Việt Nam cấp bằng di tích lịch sử văn hóa tháng 9 năm 1989. Khu Du lịch Chùa Tiên – Đầm Đa là một quần thể du lịch bao gồm nhiều hang động, đền chùa tuyệt đẹp, nằm bên kia sườn dãy núi Hương Sơn Chùa Hương. Ngoài ra quần thể danh thắng Chùa Tiên là di chỉ khảo cổ học cấp quốc gia.
Lễ hội chính của chùa Tiên được tổ chức vào 3 ngày: 4 – 6 tháng Giêng và kéo dài cho đến hết tháng Tư âm lịch. Mỗi năm lễ hội lại được tổ chức quy mô hơn, đông vui hơn, du khách bốn phương tìm về nhiều hơn. Gọi là lễ hội Chùa Tiên, nhưng đây là lễ hội chung cho cả khu di tích mà địa điểm chính được đặt ở Chùa Tiên.
Đến với lễ hội Chùa Tiên, du khách sẽ được thưởng thức một di sản văn hoá vừa vật thể, vừa phi vật thể. Những chiếc kiệu như từ truyền thuyết đi ra, như từ dã sử xuất hiện, vừa lạ vừa quen, vừa cổ xưa, vừa mới mẻ, vừa bình dị vừa thiêng liêng. Những chiếc kiệu Thành hoàng làng là trung tâm của đám rước, được khiêng trên đôi vai của các nam thanh nữ tú dân tộc Mường. Chiếc kiệu được rước trên những đôi vai của niềm tin, của lòng thành kính và của những ước mong. Kiệu Thành hoàng có thể đi, có thể chạy, có thể bay khi có niềm tin và niền tin vào sự linh thiêng được tăng lên.
Cùng với đám rước, là những nghi thức tế lễ: có dâng rượu dâng hương, có đọc sắc phong của triều vua xưa phong cho các vị Thành hoàng trong khu di tích, có dâng chúc văn cầu mong thần linh ban tặng mưa thuận gió hoà, nhà nhà an khang, xóm làng thịnh vượng… Đó là những nghi thức đã trở thành truyền thống để tôn vinh các vị thần Thành hoàng làng – những người đã vì nước vì dân được tôn thờ.
Chùa Tiên toạ lạc dưới chân núi Tung Sê trên một khu đất khá bằng phẳng có mặt tiền quay về hướng Đông Bắc. Theo truyền thuyết, Chùa Tiên được xây dựng từ rất xa xưa theo lối kiến trúc nhà sàn với nguyên vật liệu là tranh tre nứa lá. Trải qua năm tháng, ngôi chùa đã bị xuống cấp. Năm 1998, bằng nguồn vốn trùng tu tôn tạo di tích của Bộ Văn hoá Thông tin và sự đóng góp của chính quyền và nhân dân trong xã, ngôi chùa đã được trùng tu tôn tạo khang trang như ngày nay. Đến dâng hương tại Chùa Tiên, du khách sẽ có dịp được bày tỏ lòng thành kính lên các đức Phật các ước mong của mình.Phía sau Chùa Tiên ngay trong dãy núi Tung Sê, du khách sẽ được tới thăm danh thắng Động Tiên với nhiều điều kỳ thú. Đây là di tích khảo cổ đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng cấp quốc gia năm 1989.
Bên cạnh giá trị khảo cổ, động Tiên còn là di tích có giá trị thẩm mỹ cao. Đi sâu vào bên trong, ta sẽ bắt gặp không gian đầy huyền thoại. Ngẩng đầu lên ta bắt gặp một vòm trần lô nhô, đông đúc căng chật hàng trăm, hàng ngàn khối nhũ đá rủ xuống. Chỗ thì vàng óng toả ra như một rừng hoa, chỗ thì trắng xoá, bầu thon như những viên ngọc; chỗ thì rực rỡ như một căn phòng với các chùm đèn trang trí. Các khối nhũ đá được chạm chổ tinh tế những hình thù kỳ lạ, bí ẩn, đường nét uyển chuyển, mềm mại và khá cân đối.
Nét đặc biệt ở động Tiên là quần thể các cột đá mọc lên từ nền hang, giữa phòng là một khối nhũ lớn, xung quanh là bạt ngàn các cột nhũ nhỏ như hội quần tiên ở rừng thệ đà đông đúc các vị La Hán, các Bồ Tát, các thanh văn quây quần bên nhau nghe đức Phật Như Lai giảng kinh. Tất cả đều lặng lẽ trang nghiêm, không xô bồ ồn ã. Không gian cũng tĩng mịch u huyền càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm. Và du khách càng ngắm, càng ngỡ như được đắm chìm vào tiên cảnh ấy. Và con người như được cảm thấy thanh cao hơn.

Nhà máy in tiền Chi Nê 

Nhà máy in tiền cách mạng tại Chi Nê
Những đồng tiền đầu tiên của Việt Nam
Nhà máy in tiền đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam nằm ở đồn điền Chi Nê (giai đoạn 1946-1947), nay là xã Cố Nghĩa – Lạc Thủy – Hòa Bình. Nơi đây, những “tờ bạc tài chính cụ Hồ” đầu tiên mang sứ mệnh lịch sử lớn lao đã ra đời.
Theo: https://cungphuot.info

Thuộc địa nửa phong kiến

Chế độ thuộc địa nửa phong kiến là chế độ mà ở đó tồn tại đan xen cả hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, khi ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp tư sản, công nhân và có sự tồn tại (không mất đi) của hình thái xã hội phong kiến khi giai cấp phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền thống trị (dù chỉ là hình thức) và bóc lột nông dân. Điển hình là xã hội Việt Nam dưới thời thực dân Pháp thống trị.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%99c_%C4%91%E1%BB%8Ba_n%E1%BB%ADa_phong_ki%E1%BA%BFn

Về tính chất thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến Cách mạng tháng Tám - cần làm rõ những đặc điểm kinh tế và xã hội

Tác giả : Th.s Ngô Bá Cường - PT Khoa Xây dựng Đảng
File đính kèm: Không có

Trong quá trình dạy và học các môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn học Lịch sử Việt Nam, Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam …, có một vấn đề đã trở nên hết sức quen thuộc, thậm chí được sử dụng rất phổ biến, mặc dù không phải ai cũng hiểu hết nội dung, tính chất của nó. Đó là vấn đề: Tính chất thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược đến Cách mạng tháng Tám. Trong môn học Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, vấn đề này được trình bày trong phần đầu của bài thứ nhất (Bài: Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập 3-2-1930 và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ). Để giải thích rõ hơn, xin phân tích thêm về những đặc điểm kinh tế, xã hội của Việt Nam trong thời kỳ rất đặc biệt này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn độc quyền và nhu cầu về thuộc địa càng trở nên cấp thiết đối với tất cả các nước đế quốc. Bằng ưu thế của các nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển sớm, đế quốc Pháp (cũng như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan…) đã nhanh chóng thôn tính nhiều vùng đất làm thuộc địa cho mình.
Nhìn lại xã hội Việt Nam trước khi trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, chúng ta thấy nổi lên một số đặc điểm chủ yếu như:
Thứ nhất, nền kinh tế tự nhiên (tự cấp, tự túc) chiếm địa vị chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
Thứ hai, giai cấp thống trị duy nhất lúc đó là vua và địa chủ phong kiến (lực lượng chiếm hữu đại bộ phận ruộng đất trong xã hội). Giai cấp nông dân hầu như không có ruộng đất (chủ yếu là làm thuê cho địa chủ hoặc lĩnh canh). Ngoài hai giai cấp cơ bản đó xã hội Việt Nam lúc này đã có sự manh nha của những giai cấp mới như: địa chủ tư sản hoá hoặc nông dân, thợ thủ công mất việc (trở thành bộ phận đầu tiên của giai cấp vô sản).
Thứ ba, quyền lực nhà nước tập trung trong tay vua, quan lại phong kiến và hệ thống bộ máy trấn áp nhân dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất và bóc lột địa tô hoàn toàn do địa chủ, cường hào trực tiếp nắm giữ.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp thì quan hệ sản xuất TBCN cũng xâm nhập và dần làm biến đổi xã hội Việt Nam. Từ một nước phong kiến nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
So với xã hội phong kiến, đặc điểm chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc này là:
1. Quan hệ sản xuất TBCN đã xâm nhập vào, kinh tế hàng hoá và kinh tế tiền tệ được mở rộng, từng bước đẩy lùi và thu hẹp phạm vi của nền kinh tế tự cấp, tự túc. Một nền kinh tế không hoàn toàn là phong kiến cũng không hoàn toàn là TBCN, đó là nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Để bóc lột, vơ vét nguồn lợi từ thuộc địa, Pháp thực hiện một chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động: “Duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất TBCN” ( 1 ).
2. Do sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của quan hệ sản xuất TBCN và chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp mà nền sản xuất trong nước đã có những biến đổi sâu sắc. Một số nghành công nghiệp đã ra đời như khai thác mỏ, giao thông vận tải…Quan hệ ruộng đất cũng không còn giữ nguyên được hiện trạng và hình thức bóc lột đặc thù vốn có của nó.
Sự phân hoá rõ rệt và sâu sắc trong xã hội đã tạo nên một cơ cấu giai cấp mới. Ngoài giai cấp địa chủ và nông dân, bắt đầu xuất hiện các giai cấp khác là công nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị, thậm chí trong giai cấp nông dân còn phân hoá thành phú nông, trung nông và bần nông.
3. Trong thời kỳ phong kiến, bộ máy nhà nước trong xã hội Việt Nam do giai cấp địa chủ độc quyền nắm giữ. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, quyền lực nhà nước chuyển sang tay bọn tư bản nước ngoài, chúng trực tiếp nắm bộ máy quân sự, hành chính và tư pháp. Mọi quyền hành đều ở trong tay quan lại thống trị từ Toàn quyền đến Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc, Công sứ …Viên chức thuộc địa là loại người ăn bám, là gánh nặng trên lưng nhân dân Việt Nam. Hãy xem một phép so sánh của Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: Ở Ấn Độ thuộc Anh, dân số là 325 triệu người, có 4.898 viên chức người Âu. Ở Đông Dương thuộc Pháp, dân số 15 triệu người, có 4.300 viên chức người Âu ” ( 2 ).
Với những đặc tính riêng trong bản chất đế quốc của mình, thực dân Pháp đã tạo nên một cơ sở xã hội làm chỗ dựa cho hệ thống cai trị thuộc địa bao gồm giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp tư sản mại bản. Chúng biến bộ máy cai trị của giai cấp phong kiến thành hệ thống tay sai giúp chúng bóc lột và đàn áp nhân dân.
4. Trước đây, ở nước ta phương thức sản xuất phong kiến giữ địa vị thống trị thì lúc này đặc điểm đó không còn có thể duy trì được nữa trước sự mở rộng của kinh tế hàng hoá, tiền tệ và của ngành giao thông vận tải.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong lúc tiếp tục đối phó với hàng loạt cuộc khởi nghĩa và đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp đã bắt đầu triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Kết quả là một số yếu tố của thành phần kinh tế TBCN (như Ngân hàng Đông Dương, các công ty khai thác mỏ, một số đồn điền, hãng buôn, xí nghiệp và mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ…) đã xuất hiện. Nói đúng hơn là những thành phần này được ghép từ ngoài vào xã hội Việt Nam cổ truyền trong điều kiện vẫn bảo tồn ở một mức độ đáng kể những tàn dư của phương thức sản xuất phong kiến, ( thể hiện rõ nhất là sự bảo tồn chế độ ruộng công cùng các thiết chế thượng tầng phù hợp với nó trong các cộng đồng làng xã).
Thủ đoạn của thực dân Pháp ở Việt Nam là vẫn tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ phong kiến làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Vì thế, chúng tìm mọi cách để duy trì và cho phép phát triển mạnh thêm thành phần kinh tế của giai cấp này.
Trên đây là những nét chính về tính chất thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam từ khi thực dân pháp đặt ách cai trị đến khi cách mạng tháng Tám thành công. Người viết bài này mong muốn rằng, trong khi làm rõ tính chất thuộc địa nửa phong kiến ở mức độ giải thích thuật ngữ, khái niệm (cách nói ngắn gọn, khái quát nhất và cũng chỉ để hiểu một cách đơn giản nhất), cần nắm vững những đặc trưng kinh tế xã hội của Việt Nam, những biến đổi có tính chất hệ thống của thượng tầng kiến trúc do những tác động vĩ mô của phương thức sản xuất TBCN lúc bấy giờ.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn này có rất nhiều nội dung đáng chú ý, thậm chí còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ do chỗ còn thiếu thốn về nguồn sử liệu có độ tin cậy và tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, có một điều có thể khẳng định là những gì đã được khoa học thừa nhận và trở thành kiến thức phổ biến cho đông đảo công chúng thì cần được thể hiện rõ ràng và chắc chắn. Điều này không chỉ tốt cho riêng khoa học Lịch sử mà còn là cơ sở tiếp cận và nghiên cứu thấu đáo các đối tượng của các nghành khoa học khác.
Tôn trọng lịch sử và đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể, đó không chỉ là lương tâm của người làm công tác nghiên cứu mà hơn thế, đó là con đường đúng đắn nhất để tìm đến chân lý./.
Chú thích:
(1): Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam ( sơ thảo ), Nxb Sự thật, H, 1981, tr27-28.
(2): Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2002, tr 55.
Tài liệu tham khảo:
1. Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam  ( sơ thảo ), Nxb Sự Thật, H, 1981
2. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2002