Wednesday, April 16, 2025

TÌM HIỂU VỀ CHẤM DỨT HĐLĐ DO THAY ĐỔI CƠ CẤU, CÔNG NGHỆ HOẶC VÌ LÝ DO KINH TẾ

 #layoff, #letsomeonego, #terminate, #furlough, #tinhgian, #catgiam, #sathai, #taicautruc, #cocautochuc


Đây không phải là một gợi ý hành động, đây là những hành lý đơn giản nếu bạn đang bước những bước chông chênh, có thể nó giúp đôi chân của bạn mạnh mẽ và thanh thoát hơn!


Vô sản thế giới đoàn kết lại😘


Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế


1. Những trường hợp sau đây được coi là thay đổi cơ cấu, công nghệ:


a) Thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động;


b) Thay đổi quy trình, công nghệ, máy móc, thiết bị sản xuất, kinh doanh gắn với ngành, nghề sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động;


c) Thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm.


2. Những trường hợp sau đây được coi là vì lý do kinh tế:


a) Khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế;


b) Thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước khi cơ cấu lại nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế.


3. Trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật này; trường hợp có chỗ làm việc mới thì ưu tiên đào tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng.


4. Trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật này.


5. Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật này.


6. Việc cho thôi việc đối với người lao động theo quy định tại Điều này chỉ được tiến hành sau khi đã trao đổi ý kiến với tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà người lao động là thành viên và thông báo trước 30 ngày cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cho người lao động.


——

Để đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động cần thực hiện theo các bước sau:


Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ


Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm:


Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp (theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định). Bạn có thể tải mẫu này trên trang web của Trung tâm Dịch vụ Việc làm hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương.

Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau xác nhận việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc:

Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc.   

Quyết định thôi việc.

Quyết định sa thải.

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.   

Bản chính Sổ bảo hiểm xã hội.

Căn cước công dân (CMND) hoặc hộ chiếu (bản sao có chứng thực hoặc bản gốc để đối chiếu).

Bước 2: Nộp hồ sơ


Trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp 01 bộ hồ sơ trực tiếp tại Trung tâm Dịch vụ Việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tại địa phương nơi người lao động muốn nhận trợ cấp thất nghiệp.   


Lưu ý:


Bạn không nhất thiết phải nộp hồ sơ ở nơi bạn đã làm việc trước đó.

Trường hợp bạn bị ốm đau, thai sản, tai nạn hoặc gặp các sự kiện bất khả kháng khác, bạn có thể ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ hoặc gửi hồ sơ qua đường bưu điện (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền).

Bước 3: Giải quyết hồ sơ


Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Trung tâm Dịch vụ Việc làm có trách nhiệm thẩm định hồ sơ và trình Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, Trung tâm Dịch vụ Việc làm thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.   

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ.

Bước 4: Thông báo về việc tìm kiếm việc làm


Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải hàng tháng thông báo về tình hình tìm kiếm việc làm của mình với Trung tâm Dịch vụ Việc làm theo quy định.


Đăng ký online (tùy địa phương và thời điểm):


Hiện nay, một số địa phương đã triển khai dịch vụ đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp trực tuyến thông qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia hoặc trang web của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Bạn có thể truy cập các trang web này để tìm hiểu thêm về quy trình đăng ký online tại địa phương của mình.


Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp:


Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động cần đáp ứng các điều kiện sau:


Đã chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc hợp pháp.   

Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với hợp đồng xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn. Hoặc đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với hợp đồng theo mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.   

Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động.

Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.   

Việc nắm rõ quy trình và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ sẽ giúp bạn đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp một cách thuận lợi và nhanh chóng.

———

Theo quy định của Bộ luật Lao động 2019 và Nghị định 145/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động, mức lương để tính trợ cấp mất việc làm bao gồm:


Tiền lương tháng bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động mất việc làm.


Cụ thể, tiền lương này bao gồm:


Tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp lương (nếu có).

Các khoản bổ sung khác được xác định bằng mức tiền cụ thể và được trả thường xuyên trong kỳ trả lương.

Các khoản sau đây không được tính vào tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm:


Tiền thưởng theo quy định tại Điều 104 của Bộ luật Lao động.

Tiền ăn giữa ca.

Các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ.   

Các khoản hỗ trợ khi người lao động có người thân kết hôn, ma chay, sinh nhật, người lao động bị bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.   

Như vậy, mức lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương thực tế người lao động nhận được hàng tháng, bao gồm lương cơ bản và các khoản phụ cấp lương có tính thường xuyên.


Căn cứ pháp lý:


Điều 47 Bộ luật Lao động 2019.

Khoản 3 Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP.

Lưu ý rằng đây là quy định chung. Trong trường hợp cụ thể, việc xác định các khoản tiền nào được tính vào mức lương để tính trợ cấp mất việc làm có thể cần xem xét kỹ hơn hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác giữa người sử dụng lao động và người lao động.

——


Mức chi trả trợ cấp mất việc làm được tính theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Lao động 2019 như sau:


Mức trợ cấp mất việc làm = Thời gian làm việc tính trợ cấp mất việc làm x Tiền lương tháng tính trợ cấp mất việc làm


Trong đó:


Thời gian làm việc tính trợ cấp mất việc làm:


Được tính là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.   

Thời gian làm việc để tính trợ cấp được tính theo năm (đủ 12 tháng). Các trường hợp có tháng lẻ được quy định như sau:

Dưới 06 tháng: không tính.

Từ đủ 06 tháng trở lên đến dưới 12 tháng: tính bằng 1 năm làm việc.

  

Tiền lương tháng tính trợ cấp mất việc làm:


Là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động mất việc làm.


——

Khi tái cơ cấu tổ chức và cần tinh giản lao động, người sử dụng lao động phải thực hiện các bước sau theo quy định của pháp luật Việt Nam:


1. Xây dựng phương án sử dụng lao động:


Đánh giá tình hình: Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức mới, xác định vị trí việc làm cần thiết và số lượng lao động dư thừa.

Xây dựng phương án: Lập kế hoạch chi tiết về việc sử dụng lao động sau tái cơ cấu, bao gồm:

Số lượng và danh sách người lao động tiếp tục được sử dụng.

Số lượng và danh sách người lao động cần chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ).

Phương án đào tạo lại, chuyển đổi vị trí cho người lao động (nếu có).

Các biện pháp hỗ trợ người lao động bị chấm dứt HĐLĐ.

Tham khảo ý kiến: Trao đổi và tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (nếu có) về phương án sử dụng lao động.

2. Thông báo và thực hiện chấm dứt HĐLĐ:


Thông báo trước:

Đối với HĐLĐ không xác định thời hạn: Báo trước ít nhất 45 ngày.

Đối với HĐLĐ xác định thời hạn từ 12 đến 36 tháng: Báo trước ít nhất 30 ngày.

Đối với HĐLĐ xác định thời hạn dưới 12 tháng: Báo trước ít nhất 3 ngày làm việc.

Hình thức thông báo: Bằng văn bản cho từng người lao động.

Quyết định chấm dứt HĐLĐ: Ban hành quyết định chấm dứt HĐLĐ theo đúng quy định của pháp luật.

Trả trợ cấp mất việc làm: Người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động bị chấm dứt HĐLĐ do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Lao động 2019. Mức trợ cấp được tính như sau:

Cứ mỗi năm làm việc được trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương.

Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã được trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm trước đó.   

Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề trước khi người lao động mất việc làm.   

3. Thực hiện các nghĩa vụ khác:


Thanh toán đầy đủ tiền lương và các khoản khác: Thanh toán đầy đủ tiền lương, tiền lương ngừng việc, tiền làm thêm giờ, tiền nghỉ phép năm còn lại và các khoản tiền khác theo thỏa thuận trong HĐLĐ và quy định của pháp luật cho người lao động.

Trả sổ bảo hiểm xã hội: Trả lại sổ bảo hiểm xã hội đã chốt quá trình đóng cho người lao động.

Thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động: Thông báo về việc cho nhiều người lao động thôi việc theo quy định tại Điều 43 Bộ luật Lao động 2019.

Ưu tiên tuyển dụng lại: Khi có nhu cầu tuyển dụng lao động cho các vị trí mới phù hợp, người sử dụng lao động nên ưu tiên tuyển dụng lại những người lao động đã bị tinh giản nếu họ đáp ứng yêu cầu.

Lưu ý quan trọng:


Việc tinh giản lao động phải được thực hiện một cách hợp pháp, công khai, minh bạch và đảm bảo quyền lợi của người lao động.

Người sử dụng lao động cần tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định về thời gian báo trước, chế độ trợ cấp theo quy định của pháp luật lao động hiện hành.

Cần xem xét các chính sách hỗ trợ khác cho người lao động bị mất việc làm như tư vấn việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề (nếu có).

Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định pháp luật và tránh các tranh chấp lao động có thể xảy ra, người sử dụng lao động nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp lý hoặc cơ quan quản lý nhà nước về lao động.

——-

Thủ tục người lao động gửi đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động như thế nào?


Theo quy định tại Điều 190, 191 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về thủ tục gửi đơn khởi kiện tranh chấp lao động như sau:


Bước 1: Viết đơn và nộp đơn


- Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:


+ Nộp trực tiếp tại Tòa án;


+ Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;


+ Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nopdonkhoikien.toaan.gov.vn).


Bước 2: Tòa án tiếp nhận đơn


- Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính


+ Khi nhận đơn Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn;


+ Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.


- Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện.


- Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện.


- Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.


Bước 3: Xử lý đơn khởi kiện


- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.


- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:


+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;


+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;


+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;


+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.


- Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán phải được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).


Nội dung đơn khởi kiện tranh chấp lao động cần có những gì?

Theo khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:


Hình thức, nội dung đơn khởi kiện

...

4. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;

b) Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;

c) Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).

Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;

d) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);

đ) Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện;

e) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).

Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

g) Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);

i) Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.

Theo đó, người lao động khi làm đơn khởi kiện tranh chấp lao động cần đảm bảo có đầy đủ những nội dung như trên trong đơn, nếu thiếu nội dung thì rất có thể sẽ không được nhận đơn.


Người lao động có thể nhờ người khác nộp đơn khởi kiện thay cho mình được hay không?

Theo khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:


Hình thức, nội dung đơn khởi kiện

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.

2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:

a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

c) Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.

...

Theo đó, người lao động có thể nhờ người khác làm và nộp đơn khởi kiện thay cho mình.


Tuy nhiên, trong đơn khởi kiện phải điền họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người lao động (người khởi kiện) và ở phần cuối đơn người lao động phải tự ký tên hoặc điểm chỉ.



Tuesday, March 25, 2025

Vé về tuổi thơ

Học liệu, Công cụ AI giúp cho các Thầy Cô giáo và các anh chị chuyển ảnh/ tranh thành hình động giúp buổi học sinh động hơn:













Friday, March 21, 2025

NHỮNG NGƯỜI CON TRAI CỤ TẢN ĐÀ.


Ông út:

Ông con trai út của cụ Tản Đà tên là Nguyễn Khắc Đại. Ngày bé ông Đại học giỏi có tiếng. Thầy giáo thường sai Đại thu các bài văn, bài tính của bạn bè rồi chấm bài giúp thầy. Kể cả bài văn của Phùng Quán sau này thành nhà văn cũng được Đại sửa chữa chấm phẩy lại. Cụ Tản Đà là người giỏi môn tử vi đoán số. Đã có thời kỳ cụ mở tiệm xem số hà đồ cho khách khi gia đình còn ở khu Ngã Tư Sở, Hà Nội. Khi thấy con học giỏi, cụ biết Đại sẽ học cao đỗ đạt nhất nhà. Khi ấy cụ mới giật mình thấy sự sơ sẩy của mình khi đặt tên khai sinh cho Đại theo họ Nguyễn Khắc thành Nguyễn Khắc Đại. Nó sẽ vận "khắc" vào số phận của con sau này. Cụ mang bản khai sinh đến nhà lý trưởng quê nhà nhờ chữa chữ "Khắc" thành chữ "Tất" để có tên Nguyễn Tất Đại, có vậy sau này con út cụ mới thành đạt.

Khi đi bộ đội, Tất Đại khai lại họ tên mình theo họ bố Nguyễn Khắc Hiếu cho oai, vì bố cậu là nhà thơ Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) ai cũng biết. Từ đó Đại lại có tên Nguyễn Khắc Đại đúng như tên khai sinh của mình từ khi mới lọt lòng.

Hòa bình lập lại, Nhà nước có chủ trương tổ chức mở hội thảo về thơ văn của Tản Đà để kỷ niệm ngày sinh nhân năm chẵn của cụ. Báo chí có nhiều bài viết ca ngợi thơ văn yêu nước của Tản Đà. Miền Bắc chưa kịp tổ chức lễ kỷ niệm thì Sài Gòn mở kỷ niệm trước, đài Sài Gòn làm rùm beng sự kiện này. Theo tư duy thông thường máy móc: mọi cái được địch ca ngợi thì ta phải đả phá. Một số ông nhà văn, nhà nghiên cứu văn học trước đã viết những bài báo ca ngợi cụ Tản Đà nay lại quay ngoặt đả phá cụ có tư tưởng sai trái này nọ. Họ bới lông tìm vết, đổ cho cụ là phần tử trốt-kít mà cụ đâu có biết "cút kít" là gì.

Trước đó, Đại đã bàn với Phùng Quán cùng viết tiểu thuyết. Phùng Quán sẽ viết Vượt Côn Đảo, Đại viết Khu tự đánh Pháp. Nhưng trước việc bố mình bị phê phán, Nguyễn Khắc Đại xé hết bản thảo của mình trước mặt Phùng Quán và thề với bạn mình sẽ không còn dây dưa gì với văn chương báo chí.

Nguyễn Khắc Đại học xong đại học về công tác ở ngành Thống kê Phú Thọ. Sau này ông chuyển đi xây dựng Nhà máy dệt Vĩnh Phú. Hiện giờ ông đang sống trong khu công nhân đông ngàn ngạt toàn người của ngành dệt thuộc thành phố Việt Trì, cách nhà ông anh trưởng có vài nhảng chân. Nhưng nhà ông không có bàn thờ cụ Tản Đà. Ông bảo, đến khi ông cả mất ông mới rước chân hương và ảnh cụ Tản Đà về thờ ở nhà mình, vì chỉ có ông mới có con trai là cháu chắt đằng nội cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.

Ông thứ:

Ông con trai thứ của cụ Tản Đà là Nguyễn Khắc Phục. Ông Phục ngày bé được cậu ruột nuôi ăn học. Cậu ruột ông là quan Án sát đô thành Huế: Nguyễn Tiến Lãng. Dinh quan lớn lúc nào cũng có đông người hầu kẻ hạ. Nguyễn Khắc Phục ngày ngày được hầu hạ cơm bưng nước rót. Việc tắm giặt của cậu lúc nào cũng có tên cảnh sát phục vụ. Cậu ấm con cháu nhà quan ấy đến trường được mọi người nể trọng. Cậu ấm giỏi văn thơ, nhạc họa, lúc nào cũng có nhiều tiểu thư con nhà khuê các yêu chiều. Rồi cách mạng nổ ra ở Huế, người nhà quan như cậu phải lẩn trốn. Rồi một hôm cậu bất đắc dĩ gặp phải người cán bộ Việt Minh. Cậu giật mình nhận ra người cán bộ ấy từng là người lính hầu trong dinh quan nhà cậu. Mặt cậu tái mét biết mình sẽ chết chắc. Nhưng cán bộ ngoắc tay gọi cậu lại gần bảo:

- Cứ yên tâm, tôi từng được nghe cậu đọc thơ của cánh tả. Cậu có tư tưởng tiến bộ rất đáng được hoan hô.

Rồi cán bộ Việt Minh nắm chặt tay cậu, bảo cậu cứ làm nhiều thơ tuyên truyền cho cách mạng. Cậu thở phào, nhờ có máu me văn thơ của bố truyền cho mà Nguyễn Khắc Phục vượt qua được giai đoạn hiểm nghèo.

Cậu ra Hà Nội thăm gia đình, vẫn giữ thói quen ăn chơi phóng túng, trong chuyến đường trường ấy Phục không hề mang theo va li quần áo. Cậu mang theo rất nhiều tiền bạc, cần gì mua nấy. Cậu chỉ mang theo cái tráp sơn son thếp vàng đựng toàn của quý gồm các bức thư tình và tặng phẩm của người đẹp gồm ảnh các em, bút máy Parker, khăn tay v.v…

Nguyễn Khắc Phục về đến nhà giữa lúc nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Thanh niên Hà Nội nô nức tòng quân, Khắc Phục cũng xung phong ghi tên tòng quân vào Trung đoàn Thủ đô. Đơn vị của Phục chiến đấu oanh liệt trên mặt trận sông Lô. Biết Phục là con nhà thơ Tản Đà, thủ trưởng đơn vị cử Phục đi làm báo cho đơn vị. Rồi cậu được phân công làm chủ bút của báo Vệ quốc, có cả nhà thơ Hải Như trong Ban biên tập. Tòa soạn báo Vệ quốc đóng ở Gia Điền, huyện Hạ Hòa, cạnh xóm Gạo, nơi trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam có các ông Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng… đóng tại nhà "bà bủ" Gái mà Tố Hữu đã viết bài thơ nổi tiếng Bầm ơi để tặng bà chủ nhà ấy. Nguyễn Khắc Phục làm nhiều thơ để in báo tuyên truyền. Anh còn làm thơ, ca dao gửi cho Ty Thông tin Phú Thọ in thành các tờ bướm phát về cho cơ sở để tuyên truyền đồng bào tham gia các phong trào thi đua sản xuất hay "Áo ấm mùa đông chiến sĩ", "Bình dân học vụ" v.v… Hồi ấy ông Xuân Diệu thường sang báo Vệ quốc lấy bài của Phục để sử dụng cho phong trào thơ ca quần chúng tuyên truyền cho kháng chiến. Thơ của Nguyễn Khắc Phục được chuyển thành lời bài hát cho nhân dân Khu 10 và Phú Thọ học thuộc lòng hát khắp nơi, như bài Lấy chồng thương binh, Đố chữ v.v…

Phục đóng quân ở nhà "bủ Hồng" sau này là mẹ vợ anh. Bủ Hồng có hai cô con gái chưa chồng. Một hôm Phục nghe trong buồng cô Lịch, con gái lớn, đang khóc thút thít. Cô khóc suốt mấy ngày mấy đêm. Có lúc "bủ Hồng" vào buồng con gái, không khuyên can mà còn rầy la con gái. Một hôm Phục gạn hỏi, "bủ Hồng" buộc phải nói:

- Với anh tôi chả giấu làm gì. Con ôn nhà tôi nó dại dột cả tin, trót ăn nằm với anh bộ đội nào đấy. Anh ta hứa đông hứa tây rồi chuyển quân đi mất hút. Con bé trót có mang, bây giờ không biết nên làm thế nào, nó chỉ biết khóc anh ạ.

Mấy ngày sau cô gái vẫn khóc. Tiếng khóc động vào lòng trắc ẩn của anh chiến sĩ trẻ. Anh dằn vặt, tự đấu tranh tư tưởng chán chê đến khi thông suốt rồi, anh nói với "bủ Hồng":

- Bầm bảo em nó đừng khóc nữa. Em nó có mang rồi cũng được. Con sẽ nhận làm bố đứa bé, con sẽ cưới cô ấy.

Bà mẹ trố mắt lên, Phục càng cả quyết nói:

- Bầm bảo em nó đi, con sẽ xây dựng với em ấy, bầm nhé!

Việc đến tai mọi người, gia đình phản đối, anh em đồng đội phản đối. Nhưng từ khi vào Vệ quốc đoàn, Phục đã thấm nhuần tinh thần người chiến sĩ biết hy sinh vì đồng đội đồng bào. Giờ thấy đồng bào trước bế tắc có thể ra sông ra suối trầm mình, Phục không thể cứu được mà không cứu. Phục đã quyết, không ai cản được. Đám cưới với cô chị xong, lại tiếp đến cô em cũng trót "hiến dâng" cho một anh bộ đội. Cô đã có mang bốn tháng mà người yêu nghe phong thanh vừa mới hy sinh. Cô khóc lóc, cô cả Lịch biết chồng mình là người hay thương người, tỉ tê nói khó mong chồng yêu thương nốt em gái mình để tránh mang tai mắc tiếng xấu cho em. Đắn đo mãi, cuối cùng Phục cũng đồng ý. Thời ấy chưa có Luật hôn nhân gia đình cấm trai lấy 2, 3 vợ. Vì thế anh em gia đình cực lực phản đối. Đơn vị tập trung họp trong rừng vắng để đấu tranh không cho Phục lấy vợ hai. Phục chỉ với cái lý đi làm cách mạng là đi cứu người: Bây giờ trước cảnh khốn cùng một con người, tôi ra tay cứu giúp, không ai có quyền cấm. Ai cũng biết Phục đang hy sinh mình để cứu giúp người khác. Rõ ràng anh đẹp trai, trí thức, con thi sĩ Tản Đà cả nước biết, anh lấy đâu không được cô gái con nhà khuê các mặt hoa da phấn, mà về hình thức rõ ràng hai người vợ anh không thể so sánh với họ. Những thiếu nữ xinh đẹp đã yêu anh ở Huế, anh gạt đi hết, chỉ còn tập trung lo công tác phục vụ kháng chiến.

Sau này khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội được phục viên, Phục xin về Gia Điền với hai cô vợ mình. Sư đoàn trưởng nói: "Tôi không hiểu nổi đồng chí, trong khi mọi người phục viên đều xin về xuôi hoặc về thành phố để có vợ đẹp con khôn nhưng đồng chí ra quân lại xin về vùng chiến khu…".

Nguyễn Khắc Phục sống gắn bó với vợ con ở Gia Điền. Ông với tài vặt thời trai trẻ vẫn tích cực tham gia vẽ vời và phong trào thơ ca quần chúng, đến khi về già hai bà vợ mới lục trong ví của ông một bức thư tình của cô gái trẻ từ Thanh Hóa gửi đến. Số là Nguyễn Khắc Phục viết rất nhiều lời các bài hát dân ca vọng cổ gửi cho Đài Tiếng nói Việt Nam. Qua chương trình, một thính giả ở Thanh Hóa mới biết Phục là con cụ Tản Đà, ngỡ anh còn trẻ viết thư ngỏ lời kết bạn. Cuối cùng Phục phải nói rõ mình đã ngoại 60 để giãn đi mối tình vui vui ấy. Năm nay nếu còn sống ông cũng ngót 90 tuổi. Ông mới mất cách đây ba, bốn năm tại Gia Điền, nơi tòa báo Vệ quốc và cơ quan văn nghệ Việt Nam từng đóng quân thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp.

Ông trưởng:

Sinh đốt con trai đầu tiên, cụ Tản Đà mừng lắm vì đứa bé khôi ngô tuấn tú. Cụ khai sinh đứa con ấy là Nguyễn Khắc Xương. Nhưng chưa đầy tuổi tôi, Nguyễn Khắc Xương đã chết. Cụ ủ rũ nhớ thương con không thể nguôi được, vì thế khi vợ sinh lần thứ hai được cậu con trai, cụ liền lấy tên Nguyễn Khắc Xương đặt cho thằng trưởng nam của mình. Cụ Tản Đà nghệ sĩ đến mức không nhà cửa, không nuôi nổi vợ con. Nguyễn Khắc Xương được gửi cho người anh con bác làm quan Tri phủ Vĩnh Tường nuôi ăn học. Vợ con còn lại được gửi về sống ở nhà bố vợ làm quan Tri phủ Bất Bạt ở tỉnh Sơn Tây.

Cụ Tản Đà vốn dòng nho gia, anh em chú bác đều đỗ đạt và làm quan đương triều. Cụ là người ngông ngạo, tự diễu mình: "Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không". Nguyễn Khắc Xương học xong tú tài vừa lúc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Ông xin vào ngành Công an Khu 3. Vì giỏi tiếng Pháp, cơ quan phân công xét hỏi cô đầm Tây. Với máu "ngông" cha truyền con nối, thấy cặp đùi trắng nõn của cô đầm Tây, Nguyễn Khắc Xương vừa xoa đùi cô ta vừa nói: "Đẹp thế này mà đi làm gián điệp à?". Cơ quan họp kiểm điểm Nguyễn Khắc Xương rồi quyết định điều động ông lên công tác trên chiến khu cho xa vùng địch dễ làm lung lay tư tưởng của anh chàng trí thức tiểu tư sản này.

Nguyễn Khắc Xương được phân công làm hành chính ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Hạ Hòa sát Yên Bái, Tuyên Quang thuộc vùng chiến khu thời ấy. May mắn cho Nguyễn Khắc Xương lên đây được gặp ông Đặng Văn Đăng tức "nhà thơ" Bút Tre mà ai cũng biết. Ông Bút Tre từng làm thư ký cho Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Ông được làm việc gần gũi với Bác Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng v.v… Trung ương cử ông về tăng cường cho địa phương, lãnh đạo việc thông tin tuyên truyền. Vì Phú Thọ là thủ phủ Khu 10 lại tập trung nhiều cơ quan Trung ương từng có nhiều văn nghệ sĩ trí thức đóng quân như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Tạ Mỹ Duật, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Đỗ Nhuận v.v…

Ông Bút Tre từng là bạn vong niên của cụ Tản Đà. Nguyễn Khắc Xương biết hồi nhà mình còn ở khu Ngã Tư Sở, ông Bút Tre tức anh giáo Đăng đang dạy học ở Tuyên Quang, người đã viết tiểu thuyết Lục y lang thường xuống chơi nhà mình. Cụ Tản Đà rất tin anh giáo Đăng, nhờ anh tìm cho một người bạn giỏi chữ nghĩa về lo trị sự tờ báo của cụ sắp mở. Gặp nhau ở Hạ Hòa, ông Bút Tre bảo Khắc Xương xin chuyển về Ty Thông tin Tuyên truyền, ở đấy Nguyễn Khắc Xương mới có đất dụng võ.

Nguyễn Khắc Xương cũng theo bố làm rất nhiều thơ. Xem thơ của Nguyễn Khắc Xương, ông Bút Tre lắc đầu: "Thơ cậu dở ẹt, có làm cả đời cũng không theo bố cậu được". Ông hướng cho Nguyễn Khắc Xương ngả sang nghiên cứu văn hóa dân gian vì ông biết Phú Thọ là nơi Vua Hùng dựng nước, chắc chắn sẽ có nhiều chứng minh Phú Thọ là Đất Tổ, sẽ có nền văn hóa Hùng Vương còn trầm tích trong dân gian. Nguyễn Khắc Xương được Bút Tre cho tung tẩy đi điền dã khắp nơi trong tỉnh. Ông đi quanh năm suốt tháng, hàng tháng chỉ về lĩnh trợ cấp, báo cáo kết quả công tác với anh Đăng rồi lại "lặn" mất tăm khỏi cơ quan, không họp phòng, họp cơ quan, không dự đọc báo hằng ngày, không tăng gia, vệ sinh tập thể. Cán bộ cơ quan thắc mắc, ông Bút Tre nói: "Nó mà đút chân gầm bàn thì vô tích sự". Được ông Bút Tre hậu thuẫn, Nguyễn Khắc Xương tha hồ đi điền dã sưu tầm tư liệu văn hóa dân gian Phú Thọ ngay từ thời đầu chống Pháp. Ông ghi chép những lễ hội nọ, lễ hội kia, nhiều nhân viên cơ quan không hiểu cho là ông phục hồi phong kiến mê tín. Cán bộ tỉnh, nhiều ông Tỉnh ủy viên cũng cho Bút Tre và Nguyễn Khắc Xương tào lao.

Nguyễn Khắc Xương lại có máu ngông, hay lợi dụng đăng đàn diễn thuyết để xoa má, vuốt tóc các em, bị mọi người diễu cợt về "máu gái" của anh. Anh lại không có thời gian ở cơ quan để phấn đấu vào Đảng. Ông Bút Tre xua tay bảo: "Mày làm tốt công việc của mình là được, kệ chúng nó muốn nói gì cũng mặc".

Ông Bút Tre thường báo cáo công việc của Nguyễn Khắc Xương với Bí thư, Chủ tịch tỉnh. Biết Nguyễn Khắc Xương là con cụ Tản Đà, đôi khi họ sang Ty Thông tin gặp Nguyễn Khắc Xương. Việc này làm cho cán bộ cơ quan ghen tức với Nguyễn Khắc Xương. Họ coi Xương là người ngoài Đảng lại hay vô kỷ luật, thích ve vuốt các em thế mà lại được Ty, lãnh đạo tỉnh quan tâm. Những tài liệu về hát Xoan, hát Ghẹo và văn hóa Hùng Vương ở Phú Thọ được Nguyễn Khắc Xương sưu tầm ngay dưới tầm đại bác của giặc Pháp ở thành Việt Trì và Hưng Hóa bắn ra.

Ông Bút Tre báo cáo những kết quả ấy với lãnh đạo tỉnh và các cơ quan nghiên cứu Trung ương. Cán bộ Ty Thông tin nhiều người không hiểu nổi ý nghĩa công việc đó, họ phê phán Nguyễn Khắc Xương và Bút Tre không thực tế. Cả việc ông Bút Tre làm ca vè cho in thành sách, thành các tờ bướm để gửi đi cơ sở tuyên truyền họ cũng đả phá. Họ thắc mắc không được ông Bút Tre cất nhắc lên phó phòng, trưởng phòng nên mâu thuẫn với ông Trưởng ty. Ông Bút Tre với mối quen biết của mình với lãnh đạo Trung ương, nhiều khi ông phải xin chỉ thị của cấp trên và yêu cầu Phú Thọ mở lại lễ hội Đền Hùng sau nhiều năm đình chỉ do kháng chiến. Rồi ông đăng cai mở nhiều hội thảo khoa học về lịch sử khảo cổ, xã hội học, dân tộc học, văn hóa văn nghệ dân gian… Tất cả để chứng minh lịch sử thời đại Vua Hùng dựng nước là có thật ở Phú Thọ. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam được thành lập mà ông Bút Tre là một Ủy viên Ban chấp hành, một người sáng lập; đồng thời ở Phú Thọ cũng ra đời Hội Văn nghệ dân gian do ông Bút Tre làm Chủ tịch, ông Nguyễn Khắc Xương làm Ủy viên thư ký. Trước sự kiện này đài Sài Gòn đã phát đi lời một giáo sư nổi tiếng nhận xét đại loại: về việc này chúng ta (tức chế độ Sài Gòn) đã thua xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Tên ông Bút Tre sau đó được đưa vào mục từ của Từ điển Văn hóa Việt Nam cùng với các văn nghệ sĩ trí thức nổi tiếng Việt Nam. Còn ông Nguyễn Khắc Xương nghe theo sự hướng dẫn của Bút Tre suốt đời đi theo con đường nghiên cứu văn hóa dân gian và ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về việc này.

Còn nhớ hồi hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phú nhân kỷ niệm ngày sinh nhà thơ Tản Đà đã tổ chức lễ kỷ niệm và Hội thảo thơ Tản Đà. Đến mục gia đình phát biểu, ông Nguyễn Khắc Xương là trưởng nam được mời phát biểu, Nguyễn Khắc Xương nói:

- Tôi vẫn nhớ bố tôi lúc sống thường dạy các con phải nhớ lấy ba điều cấm không được làm những việc phải qụy lụy khom lưng để cầu xin người khác:

Một là, không được làm nghề ăn mày. Ăn mày tức luôn phải chắp tay, khom lưng.

Hai là, không được làm kẻ trộm, kẻ trộm là đồ bất lương chỉ lấy của người về làm của mình.

Ba là, không được làm quan…

Ông Xương nói đến đây, hai anh nhà văn, nhà thơ của Hội Văn học Nghệ thuật cứ lấy chân đá vào chân ông Xương. Có anh cầm gấu áo ông Xương giật cho ông thôi nói kẻo chạm nọc các ông quan chức hàng tỉnh đang có mặt. Ông Xương vẫn không ngừng, thậm chí còn nói to hơn:

- Bố tôi nói bọn quan lại là hèn hạ nhất, họ không những phải khom lưng nịnh bợ mà đối với dân họ còn trắng trợn đàn áp cướp giật của dân, chứ họ không chỉ lấy vắng mặt như kẻ trộm mà còn đàn áp cướp trắng của người khác. Vì thế quan lại là nghề thấp nhất trong hai nghề trên…

Phải chăng vì thế mà cả ba ông con của cụ Tản Đà ngoài làm ruộng, làm cán bộ thống kê và làm nghiên cứu ra, họ rất kỵ với cái ngạch quan trường.
  (Nguyễn Hữu Nhàn - HỒN VIỆT)